Wednesday, November 5, 2014

CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ SUY TIM Ở NGƯỜI CAO TUỔI DIAGNOSIS AND TREATMENT OF HEART FAILURE IN THE ELDERLY

Link tải file word: http://www.oni.vn/AhVcS
Add caption
PGS.TS. VÕ THÀNH NHÂN 
Trưởng khoa Tim Mạch Can Thiệp BV Chợ Rẫy
I.       ĐỊNH NGHĨA SUY TIM
o  Đã có rất nhiều định nghĩa của suy tim trong vòng 50 năm qua. Trong những năm gần đây, hầu hết các định nghĩa suy tim đều nhấn mạnh cần phải có sự hiện diện của: triệu chứng cơ năng của suy tim và dấu hiệu thực thể của tình trạng ứ dịch trên lâm sàng.
o  Theo Trường Môn Tim mạch Hoa Kỳ (ACC): “Suy tim là một hội chứng lâm sàng phức tạp, là hậu quả của tổn thương thực thể hay rối loạn chức năng của tim, dẫn đến tâm thất không đủ khả năng tiếp nhận máu (suy tim tâm trương) hoặc tống máu (suy tim tâm thu)”.
o  Trong phần lớn các trường hợp suy tim, bệnh nhân sẽ có biểu hiện của tình trạng cung lượng tim thấp (chẳng hạn như: mệt, khó thở khi gắng sức) hoặc tình trạng quá tải tuần hoàn gây ra sung huyết phổi và phù ngoại vi (tĩnh mạch cổ nổi, gan to, chân phù).
o  Theo Hội Tim Mạch Châu Âu: “Suy tim là một hội chứng mà bệnh nhân phải có các đặc điểm sau: các triệu chứng cơ năng của suy tim (mệt, khó thở khi gắng sức hoặc khi nghỉ ngơi); các triệu chứng thực thể của tình trạng ứ dịch (sung huyết phổi hoặc phù ngoại vi); và các bằng chứng khách quan của tổn thương thực thể hoặc chức năng của tim lúc nghỉ”
II.            DỊCH TỄ HỌC CỦA SUY TIM
o  Suy tim là một gánh nặng lớn của cộng đồng. Tỷ lệ mắc suy tim ngày càng tăng trong cộng đồng là do tuổi thọ trong dân số tăng và tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường, tăng huyết áp và bệnh mạch vành ngày càng tăng.
o  Tại Mỹ, hiện nay ước tính có khoảng 5 triệu người được chẩn đoán suy tim, và hàng năm có thêm khoảng 550.000 trường hợp suy tim mới mắc. Mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong điều trị suy tim, tỷ lệ tử vong trong 1 năm và 5 năm vẫn còn khá cao: 30% và 50%. Để cải thiện tiên lượng và giảm tỷ lệ nhập viện của suy tim, bác sĩ phải chẩn đoán sớm và điều trị theo chiến lược phù hợp với phác đồ điều trị suy tim.
o  Tại Châu Âu, hiện nay có khoảng 15 triệu người mắc suy tim, tần suất hiện mắc của suy tim trong dân số 2-3%. Ơ bệnh nhân >70 tuổi, tỷ lệ này tăng cao lên đến 10-20%. Dưới 70 tuổi, giới nam mắc suy tim nhiều hơn nữ, và nguyên nhân thường gặp là do bệnh mạch vành. Ơ độ tuổi > 70, tỷ lệ mắc suy tim giữa nam và nữ như nhau.
o  Tại Việt Nam chưa có số liệu thống kê cụ thể về số người mắc suy tim.
III. Phân độ suy tim theo NYHA (Hội Tim Mạch New York) và theo giai đoạn của AHA/ACC (Hội Tim Mạch Mỹ/Trường môn Tim Mạch Mỹ)
1.               Phân độ chức năng suy tim theo NYHA
Độ I: không hạn chế các vận động thể lực. Vận động thể lực thông thường không gây mệt, khó thở.
Độ II: hạn chế nhẹ vận động thể lực. Bệnh nhân khỏe khi nghỉ ngơi. Vận động thể lực thông thường dẫn đến mệt, khó thở.
Độ III: hạn chế nhiều vận động thể lực. Mặc dù bệnh nhân khỏe khi nghỉ ngơi, nhưng chỉ vận động nhẹ đã có triệu chứng.
 Độ IV: mệt, khó thở khi nghỉ ngơi.
2.               Phân độ suy tim theo giai đoạn của AHA/ACC
Suy tim Giai đoạn A:Bệnh nhân có nguy cơ cao của suy tim; không bệnh tim thực thể và không có triệu chứng cơ năng của suy tim”.  Ví dụ: các bệnh có thể gây suy tim như: Tăng huyết áp, bệnh mạch vành, đái tháo đường, tiền căn gia đình mắc bệnh cơ tim dãn nở, bệnh nhân sử dụng thuốc độc cho tim, béo phì, hội chứng chuyển hóa.
Suy tim Giai đoạn B: “Bệnh nhân có bệnh tim thực thể, nhưng không có triệu chứng của suy tim”. Ví dụ: bệnh nhân có tiền căn nhồi máu cơ tim; rối loạn chức năng tâm thu thất trái; bệnh van tim không triệu chứng suy tim.
Suy tim Giai đoạn C: “Bệnh nhân có bệnh tim thực thể kèm theo triệu chứng cơ năng của suy tim trước đây hoặc hiện tại”.Ví dụ: bệnh nhân có bệnh tim thực thể kèm theo mệt, khó thở, giảm khả năng gắng sức.
Suy tim Giai đoạn D: “Bệnh nhân suy tim giai đoạn cuối, suy tim kháng trị, cần can thiệp đặc biệt”. Ví dụ: bệnh nhân có triệu chứng cơ năng rất nặng khi nghỉ ngơi, mặc dù đã được điều trị nội khoa tối ưu.
IV.  SINH LÝ BỆNH CỦA SUY TIM
Suy tim là tình trạng lâm sàng thay đổi rất nhiều, tùy thuộc vào nguyên nhân gây ra suy tim, thời gian của suy tim, mức độ của suy tim và thể của suy tim. Trong trường hợp suy tim cung lượng thấp: chức năng co bóp của tim giảm và sự tưới máu cho các cơ quan sẽ giảm và hoặc áp lực động mạch giảm. Cơ thể sẽ có các cơ chế bù trừ để duy trì huyết áp động mạch và cải thiện chức năng co bóp của tim.
Các cơ chế bù trừ bao gồm:
(1)   Cơ chế Frank-Starling: giúp làm tăng tiền tải dẫn đến tăng sức co bóp cơ tim, duy trì chức năng bơm của tim.
(2)   Phì đại cơ tim: tăng khối lượng co bóp của cơ tim để tăng sức co bóp, duy trì chức năng bơm của tim.
(3)   Hoạt hóa hệ thần kinh giao cảm: làm tăng nồng độ catecholamine trong máu, dẫn đến tăng nhịp tim, tăng sức co bóp cơ tim và gây co mạch.
(4)   Hoạt hóa hệ Renin-Angiotensin-Aldosterone (RAA): làm tăng nồng độ Angiotensin II trong tuần hoàn, đây là chất co mạch mạnh, và gây giữ muối nước, giúp tăng tiền tải và tăng sức co bóp cơ tim.
(5)   Tăng tiết Arginine-Vasopressin: tăng tiết vasopressin của tuyến yên làm co mạch và giữ nước. Chính vì vậy làm tăng tiền tải, giúp cải thiện cung lượng tim.
(6)   Tăng tiết các peptid tăng thải natri của tâm nhĩ và tâm thất (ANP, BNP): gây dãn mạch và lợi tiểu (tăng thải natri). Cơ chế bù trừ này giúp cơ thể giảm bớt lượng muối-nước ứ đọng do các cơ chế bù trừ khác gây nên.
(7)   Tăng tiết các endothelin: đây là chất co mạch mạnh.
Các cơ chế bù trừ này rất hữu ích cho tim trong giai đoạn đầu, nhằm giúp làm tăng sức co bóp cơ tim, tăng cung lượng tim và duy trì huyết áp động mạch. Tuy nhiên, các cơ chế bù trừ này chỉ duy trì được trong thời gian ngắn, sau đó các cơ chế bù trừ này bị hoạt hóa quá mức và gây nên tình trạng suy tim sung huyết trên lâm sàng.

V.     CÁC THỂ SUY TIM
1.      Suy tim tâm thu: suy giảm chức năng co bóp của tim.                                                                    
2.      Suy tim tâm trương: suy giảm chức năng thư giãn và đổ đầy của tim.                                                                   
3.      Suy tim cung lượng cao: do cường giáp, thiếu máu, thiếu vitamin B1, dò động tĩnh mạch, bệnh Paget.
4.      Suy tim cung lượng thấp: do bệnh tim thiếu máu cục bộ, tăng huyết áp, bệnh cơ tim dãn nở, bệnh van tim và màng ngoài tim.
5.      Suy tim cấp: phù phổi cấp                              
6.      Suy tim mạn: tình trạng suy tim diễn tiến chậm
7.      Suy tim phải: do ứ dịch à tĩnh mạch cổ nổi, gan to sung huyết, chân phù.
8.      Suy tim trái: do ứ dịch gây ra sung huyết phổi à khó thở khi nằm, khó thở khi gắng sức, khó thở kịch phát về đêm và sau cùng gây phù phổi cấp.
9.      Suy tim ngược dòng
10.  Suy tim xuôi dòng
VI.  NGUYÊN  NHÂN VÀ CÁC YẾU TỐ THÚC ĐẨY SUY TIM
1.      CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY SUY TIM TÂM THU:
(1)   Bệnh cơ tim dãn nở: là tình trạng tăng khối tế bào cơ tim, dẫn đến dãn các buồng tim và giảm chức năng co bóp thất trái (không có bệnh mạch vành kèm theo). Bệnh cơ tim dãn nở không do thiếu máu cục bộ thường đáp ứng tốt với điều trị nội khoa và có tiên lượng tốt hơn suy tim do bệnh mạch vành. Bệnh cơ tim dãn nở thường gặp ở người trẻ, chiếm khoảng 25% các trường hợp, ít có biểu hiện triệu chứng trên lâm sàng.
(2)   Bệnh cơ tim thiếu máu cục bộ: là tình trạng bệnh gây ra do bệnh động mạch vành, với biểu hiện rối loạn vận động vùng và giảm chức năng tâm thu thất trái. Đây là bệnh cơ tim thường gặp nhất ở Mỹ, chiếm đến 2/3 các trường hợp bệnh. Xét tái thông mạch vành (can thiệp mạch vành qua da, hoặc mổ bắc cầu) ở tất cả bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ nhằm làm chậm tiến trình suy tim hoặc hồi phục tình trạng suy tim cho bệnh nhân.
(3)   Bệnh cơ tim do tiểu đường và tăng huyết áp: tăng huyết áp lâu ngày gây ra phì đại thất trái và thiếu máu cục bộ mức độ vi mạch. Tăng huyết áp và tiểu đường cũng làm tăng khả năng mắc bệnh mạch vành và bệnh cơ tim thiếu máu cục bộ.
(4)   Các tác nhân gây độc trên tim
-          Các thuốc hóa trị liệu: Anthracycline, Doxorubicin, Cyclophosphamide, Trastuzumab.
-          Rượu: là nguyên nhân thường gặp gây suy tim liên quan đến độc tố. Chiếm khoảng 30% các trường hợp bệnh cơ tim không do thiếu máu cục bộ.
-          Cocain, amphetamine
(5)   Bệnh cơ tim do viêm (viêm cơ tim)
(6)   Các bệnh van tim:
Hở van hai lá, hở van động mạch chủ. Các bệnh này lâu dài gây nên tình trạng quá tải về thể tích mãn tính và sau cùng gây suy tim tâm thu.
Hẹp van động mạch chủ và nghẽn đường ra thất trái cũng gây suy tim tâm thu. Tại Việt Nam, bệnh van tim hậu thấp vẫn còn là một trong những nguyên nhân thường gặp gây suy tim ở người trẻ <40 tuổi.
(7)   Các rối loạn về chuyển hóa
-          Cường giáp: chú ý cường giáp khi bệnh nhân có tình trạng rung nhĩ, hoặc loạn nhịp nhanh. Tỷ lệ rung nhĩ chiếm khoảng 9-12% ở tất cả bệnh nhân bị cường giáp.
-          Nhược giáp: thường gặp ở bệnh nhân mắc suy tim. Nhược giáp nặng gây ra giảm cung lượng tim và suy tim. Trong một số ít trường hợp nhược giáp có thể gặp nhịp chậm và tràn dịch màng ngoài tim.
-          Thiếu vitamin B1 (beriberi):
Mặc dù hiếm gặp ở các nước phương Tây, nhưng vẫn thường gặp ở các đất nước đang phát triển. Có thể gặp ở những người có chế độ dinh dưỡng kém, những người uống rượu lâu ngày (nghiện rượu). Biểu hiện lâm sàng của suy tim do thiếu vitamin B1-là tình trạng suy tim cung lượng cao bao gồm: phù nhiều, dãn mạch ngoại biên, sung huyết phổi.  Dấu hiệu của thiếu vitamin B1: viêm lưỡi, vùng da cứng tăng sừng hóa và bệnh lý thần kinh ngoại biên. Điều trị bằng thiamine đường tĩnh mạch hoặc uống, tình trạng suy tim cải thiện đáng kể.
-          Thiếu máu: Thiếu máu gây ra suy tim cung lượng cao. Trong trường hợp thiếu máu cấp (do mất máu cấp), gây giảm thể tích tuần hoàn và làm cung lượng tim giảm. Tuy nhiên, trong thiếu máu mãn, các triệu chứng cơ năng của suy tim là do các cơ chế bù trừ. Hầu hết những người khỏe bình thường, có thể dung nạp với thiếu máu mãn mức độ trung bình (hemoglobin<9g/dl) mà không có biểu hiện của suy tim, nhưng với những người có bệnh tim cơ bản sẽ có biểu hiện của suy tim sớm hơn. Cơ chế bù trừ chính gồm: giảm kháng lực mạch máu, tăng 2,3 diphosphoglycerate, dịch chuyển đường cong phân ly hemoglobin-oxy sang phải, ứ dịch và tăng cung lượng tim. Điều trị các nguyên nhân gây ra thiếu máu và truyền máu-phối hợp với lợi tiểu, sẽ cải thiện triệu chứng lâm sàng. Phải truyền máu chậm (1-2 đơn vị trong vòng 24 giờ) và dùng thêm lợi tiểu khi truyền máu.
-          Những nguyên nhân chuyển hóa khác gây suy tim cung lượng cao: bệnh Paget, hội chứng Albright.
(8)   Bệnh cơ tim do di truyền: chiếm khoảng 20-30% các trường hợp bệnh cơ tim dãn nở, có tính chất gia đình và có tiên lượng xấu.
(9)   Bệnh tim bẩm sinh: các bệnh tim bẩm sinh như: thông liên nhĩ, thông liên thất, còn ống động mạch…
2.      CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY SUY TIM TÂM TRƯƠNG
(1)   Tăng huyết áp
(2)   Tiểu đường
(3)   Bệnh mạch vành
(4)   Bệnh cơ tim phì đại
(5)   Bệnh cơ tim hạn chế
(6)   Các bệnh gây suy tim cung lượng cao: thiếu máu, cường giáp, dò động mạch-tĩnh mạch
(7)   Hẹp van động mạch chủ
3.      CÁC YẾU TỐ THÚC ĐẨY SUY TIM
(1)   An mặn (nhiều natri)
(2)   Không tuân thủ điều trị
(3)   Nhồi máu cơ tim cấp
(4)   Tăng huyết áp
(5)   Rối loạn nhịp tim cấp
(6)   Nhiễm trùng và/ hoặc sốt
(7)   Thuyên tắc phổi
(8)   Thiếu máu
(9)   Cường giáp
(10)       Thai kỳ
(11)       Viêm nội tâm mạc nhiễm trùng hoặc viêm cơ tim cấp
(12)       Do thuốc: kháng viêm nonsteroid, verapamil

VII.       CHẨN ĐOÁN SUY TIM
1.      TRIỆU CHỨNG CƠ NĂNG CỦA SUY TIM
o  Các triệu chứng cơ năng do tình trạng sung huyết phổi (thay đổi từ nhẹ đến nặng) bao gồm: khó thở khi gắng sức, khó thở khi mằm, khó thở kịch phát về đêm, cơn hen tim và phù phổi cấp.
o  Các triệu chứng cơ năng do tình trạng cung lượng tim thấp bao gồm: mệt, yếu, không thể gắng sức, các triệu chứng về não như: giảm trí nhớ, lú lẫn, nhức đầu, thường gặp ở người lớn tuổi.
o  Các triệu chứng cơ năng khác của suy tim gồm có: chóng măt, hồi hộp, ngất, chán ăn và đau bụng vùng hạ sườn phải (thường gặp trong suy tim phải).
o  Ở bệnh nhn lớn tuổi, biểu hiện của suy tim thường không điển hình, cc dấu hiệu suy tim kín đáo, khó phát hiện. Nhĩm bệnh nhn ny cĩ thể cĩ cc biểu hiện đầu tin của suy tim như: mất ngủ, cảm gic mệt mỏi tồn thn, hoặc rối loạn tri gic với l lẫn hoặc mất định hướng. Hoặc cc biểu hiện của rối loạn tiêu hóa như: chán ăn, ăn không ngon, cảm giác đầy bụng, buồn nơn v cảm giác căng tức ở vng hạ sườn phải (gặp trong suy tim phải).
o  Ở giai đoạn toàn phát, suy tim trên người lớn tuổi cũng cĩ cc biểu hiện điển hình của suy tim như ở người trẻ.
2.      TRIỆU CHỨNG THỰC THỂ CỦA SUY TIM
Các dấu hiệu lâm sàng của suy tim thay đổi tùy thuộc vào: mức độ bù trừ của suy tim, suy tim cấp hay suy tim mạn và tim phải hay tim trái bị ảnh hưởng (suy tim phải hay suy tim trái).
§      Các dấu hiệu lâm sàng điển hình của quá tải tuần hoàn trong suy tim bao gồm:
      Ran ở phổi: có ran ẩm ở đáy phổi. Do áp lực nhĩ trái tăng dẫn đến tăng áp lực trong mao mạch phổi tăng, gây ra thoát dịch vào mô kẽ và phế nang. Trường hợp nặng gây ra lụt phế nang và tạo nên bệnh cảnh phù phổi cấp.
      Hội chứng 3 giảm (rì rào phế nang giảm, rung thanh giảm, gõ đục) ở 1 hoặc hai đáy phổi, do tràn dịch màng phổi.
      Tĩnh mạch cổ nổi ở tư thế bệnh nhân nằm đầu cao 45 độ
      Phù chân, báng bụng, và gan to: một số trường hợp có thể gặp gan to và đập theo nhịp mạch.
      Phản hồi gan tĩnh mạch cổ dương tính
      Am thổi tâm thu của hở van hai lá nghe được ở mỏm tim do thất trái lớn làm dãn vòng van hai lá.
      Tiếng gallop T3 nghe ở mỏm tim, rõ nhất khi cho bệnh nhân nằm nghiêng trái và là dấu hiệu của tình trạng tăng áp lực cuối tâm trương thất trái.
§      Các dấu hiệu của tình trạng giảm tưới máu ngoại biên: chi lạnh, tái nhợt.
Mạch xen kẻ hoặc mạch có biên độ thấp: gặp trong suy tim nặng.
Các dấu hiệu sinh tồn cũng quan trọng, góp phần giúp chẩn đoán suy tim bao gồm: nhịp tim nhanh, nhịp thở nhanh, và áp lực mạch hẹp (chênh áp giữa huyết áp tâm thu và tâm trương). Đây là những biểu hiện của suy tim nặng, suy tim đang diễn tiến.
3.      XÉT NGHIỆM CẬN LÂM SÀNG
(1)   Xét nghiệm máu bao gồm: công thức máu, ion đồ, Magnesium, calcium, đường huyết đói, chức năng gan, BUN, creatinin, bilan mỡ (Cholesterol total, LDL-C, HDL-C, triglyceride), chức năng tuyến giáp (TSH, FT4, FT3) và tổng phân tích nước tiểu.
(2)   Định lượng nồng độ B-type natriuretic peptide (BNP) trong máu: BNP được tạo ra bởi các tế bào cơ tim, để đáp ứng với tình trạng quá tải của tâm thất về thể tích hoặc áp lực (tăng áp lực đổ đầy). BNP tăng ở bệnh nhân có rối loạn chức năng thất trái không triệu chứng, và ở bệnh nhân suy tim có triệu chứng.
Nồng độ BNP có tương quan với mức độ nặng của suy tim và tiên đoán được tiên lượng sống còn của bệnh nhân.
BNP>400 pg/ml phù hợp với chẩn đoán suy tim. Tuy nhiên, độ chuyên biệt của BNP giảm khi bệnh nhân có suy thận.
BNP<100 pg/ml, giúp loại trừ chẩn đoán suy tim ở bệnh nhân có biểu hiện khó thở.
(3)   Điện tâm đồ (ECG): điện tâm đồ có thể cung cấp những thông tin chẩn đoán nguyên nhân của suy tim.
Tìm kiếm dấu hiệu nhồi máu cơ tim cũ (sóng Q), phì đại nhĩ hoặc phì đại thất, dấu hiệu của thiếu máu cục bộ cơ tim (thay đổi bất thường của ST-T), các rối loạn dẫn truyền, các loạn nhịp (trên thất hoặc tại thất). Trong những trường hợp cần đánh giá chi tiết hơn về rối loạn nhịp của bệnh nhân, có thể mắc holter ECG trong 24 giờ.
(4)   X-Quang ngực: giúp ích trong chẩn đoán suy tim. Đánh giá tim có to không? Chỉ số tim/lồng ngực, và đánh giá nhu mô và mạch máu phổi. Và giúp loại trừ các nguyên nhân khác gây khó thở, chẳng hạn như: viêm phổi, tràn khí màng phổi.
Trong suy tim X-Quang ngực ghi nhận có bóng tim to, chỉ số tim/lồng ngực >0.5, tăng tuần hoàn phổi thụ động, đường Kerley B, tràn dịch màng phổi. Có thể thấy hình ảnh cánh bướm trong phù phổi cấp.
(5)   Siêu âm tim: rất hữu ích trong chẩn đoán suy tim. Đánh giá về hình thái và chức năng của tim: chức năng tâm thu, tâm trương thất trái, rối loạn vận động vùng, các bệnh van tim, màng ngoài tim, bệnh tim bẩm sinh.
(6)   Chụp mạch vành: nên tiến hành chụp mạch vành ở bệnh nhân có biểu hiện của đau thắt ngực hoặc có dấu hiệu của thiếu máu cục bộ trên ECG, hoặc xét nghiệm gắng sức dương tính (ECG gắng sức, hoặc siêu âm tim gắng sức).
(7)   Thông tim phải: tiến hành thông tim phải và đặt catheter ở động mạch phổi, giúp hướng dẫn điều trị trong trường hợp suy tim có tụt huyết áp và có bằng chứng của choáng.
4.      CHẨN ĐOÁN XÁC ĐỊNH SUY TIM
Để chẩn đoán xác định suy tim, chúng ta phải dựa vào:
(1)   Bệnh sử (triệu chứng cơ năng của suy tim, ví dụ như: khó thở)
(2)   Các dấu hiệu lâm sàng của suy tim
(3)   Xét nghiệm cận lâm sàng: Siêu âm tim, XQ ngực, ECG, định lượng nồng độ BNP, NT-pro BNP trong máu.      
VIII.    ĐIỀU TRỊ SUY TIM
NGUYÊN TẮC ĐIỀU TRỊ:                                     
o  Loại bỏ các yếu tố thúc đẩy suy tim                                                                   
o  Điều trị nguyên nhân gây suy tim                                                                   
o  Điều trị triệu chứng: Kiểm soát tình trạng suy tim sung huyết                                                              
o  Giảm công cho tim: giảm tiền tải và hậu tải    
o  Kiểm soát tình trạng ứ muối và nước                                                             
o  Tăng sức co bóp cơ tim 
1.      CÁC THUỐC ĐIỀU TRỊ SUY TIM
Các thuốc được sử dụng để điều trị suy tim mạn là nhằm mục đích ức chế con đường hoạt hóa hệ thần kinh giao cảm và hệ RAA (Renin Angiotensin Aldosterone), góp phần làm giảm triệu chứng suy tim, giảm tỷ lệ nhập viện và giảm tỷ lệ tử vong.
Các thuốc chính yếu để điều trị suy tim bao gồm: thuốc dãn mạch, ức chế bêta và lợi tiểu. Hầu hết bệnh nhân cần phác đồ điều trị bao gồm nhiều thuốc.
(1)   ỨC CHẾ MEN CHUYỂN (UCMC, hoặc ACEI)
Đây là nhóm thuốc được ưu tiên lựa chọn trong điều trị suy tim. Khuyến cáo sử dụng UCMC cho tất cả bệnh nhân suy tim có triệu chứng và có phân suất tống máu thất trái <40% (EF<40%), trừ khi bệnh nhân có chống chỉ định hoặc không dung nạp với UCMC (Nhóm I, mức độ chứng cứ A).
UCMC giúp cải thiện chức năng thất trái, giảm tần suất nhập viện vì suy tim và kéo dài tuổi thọ.
Hai thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (CONSENSUS và SOLVD) đã chứng minh sử dụng UCMC trong suy tim làm giảm tỉ lệ tử vong (nguy cơ tương đối giảm 27% trong CONSENSUS và 16% trong thử nghiệm SOLVD), giảm tỉ lệ nhập viện do suy tim nặng (nguy cơ tương đối giảm 26% trong thử nghiệm SOLVD).


(1) Thuốc UCMC:
v Lựa chọn hàng đầu
v Có lợi trong tất cả các giai đoạn suy tim
v Giảm nguy cơ suy tim (ở các bệnh nhân có nguy cơ cao: ĐTĐ, NMCT cũ, rối loạn chức năng thất trái không triệu chứng)
v Bắt đầu liều thấp và tăng dần đến liều đích
Các thử nghiệm lâm sàng đã chứng minh thuốc UCMC có tác dụng:
Giảm biến cố thiếu máu cục bộ
Chậm tiến triển bệnh
Cải thiện khả năng gắng sức
Giảm tỷ lệ nhập viện và tử vong do suy tim

Chống chỉ định của UCMC:
o   Thai kỳ
o   Suy thận nặng (creatinin ³ 2.5 mg/dL hoặc >220 µmol/L)
o   Tăng Kali máu (Kali máu >5 mmol/L)
o   Hẹp động mạch thận 2 bên
o   Hẹp van động mạch chủ nặng hoặc bệnh cơ tim phì đại tắc nghẽn
o   Tiền sử phù mạch khi dùng UCMC
Cách sử dụng UCMC trong suy tim
o   Trước khi sử dụng UCMC phải kiểm tra chức năng thận và điện giải đồ (Ion đồ). Sau khi bắt đầu điều trị UCMC 1-2 tuần, đánh giá lại chức năng thận và điện giải đồ.
o   Xem xét tăng liều UCMC sau 2-4 tuần điều trị. Không tăng liều nếu bệnh nhân có chức năng thận xấu đi (creatinin tăng) hoặc có tăng kali máu. Tiếp tục đánh giá lại chức năng thận và Ion đồ sau 1 tuần và sau 4 tuần sau khi tăng liều.
o   Có thể tăng liều UCMC nhanh ở những bệnh nhân đang nằm viện hoặc bệnh nhân được theo dõi sát.
o   Liều UCMC sử dụng để điều trị suy tim phải đạt được liều đích (liều thuốc sử dụng đạt hiệu quả trong nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng), hoặc liều tối đa mà bệnh nhân dung nạp được.
o   Sau khi đạt được liều đích của UCMC, phải đánh giá lại chức năng thận và điện giải đồ sau 1 tháng, 3 tháng và mỗi 6 tháng sau đó.
Tác dung phụ của UCMC:
o   Ho: là triệu chứng thường gặp, bệnh nhân thường ho khan và có cảm giác ngứa cổ họng. 
o   Tụt huyết áp (lưu ý trong hẹp ĐM thận, suy tim nặng)
o   Suy thận (một phần có liên quan đến tụt huyết áp)
o   Phù mạch (hiếm, nhưng có thể tử vong)
o   Tăng Kali máu (chú ý trong suy thận, đặc biệt khi kèm lợi tiểu giữ Kali) 
o   Phát ban (đặc biệt với captopril)
Tác dụng phụ khi dùng captopril liều cao: mất vị giác, giảm bạch cầu, tiểu đạm, sang thương ở miệng.
Các tác dụng phụ nặng
Suy thận nặng hơn: tăng nhẹ BUN hoặc creatinin sau khi sử dụng UCMC  là vấn đề thường gặp trên lâm sàng, đặc biệt trên nhóm bệnh nhân lớn tuổi (chức năng thận giảm do lão hóa). Kiểm tra lại xem bệnh nhân có đang sử dụng cùng lúc các thuốc gây độc cho thận hay không, chẳng hạn như đang dùng các thuốc kháng viêm non-steroid. Nếu cần, chúng ta giảm liều UCMC hoặc ngưng thuốc.
Nếu creatinin tăng < 50% giá trị creatinin ban đầu (creatinin < 3mg/dl hoặc <265 µmol/L), tiếp tục sử dụng UCMC.
Nếu creatinin tăng > 3mg/dl nhưng < 3.5 mg/dl, giảm nửa liều UCMC đang sử dụng và theo dõi sát chức năng thận, Ion đồ.
Nếu creatinin > 3.5 mg/dl (> 310 µmol/L), chúng ta phải ngưng UCMC.
Tăng kali máu: đang sử dụng UCMC mà bệnh nhân có tăng kali máu, chúng ta phải xem xét bệnh nhân có sử dụng các thuốc gây tăng kali máu không? (viên kali uống, thuốc lợi tiểu giữ kali: spironolactone, amiloride).
Nếu K+ tăng >5.5 mmol/L, nhưng < 6 mmol/L, giảm nửa liều UCMC.
Nếu K+ tăng > 6 mmol/L, ngưng ngay UCMC.
Tụt huyết áp có triệu chứng: thường cải thiện theo thời gian điều trị, và bệnh nhân nên được thông báo trước. Xem xét giảm liều lợi tiểu và các thuốc hạ áp khác.
Ho khan: nếu đang dùng UCMC, bệnh nhân ho khan nhiều, chuyển sang ức chế thụ thể angiotensin II.
(2)   ỨC CHẾ THỤ THỂ ANGIOTENSIN II (ARBs)

v  Khuyến cáo sử dụng ức chế thụ thể angiotensin (ARB) cho tất cả bệnh nhân suy tim và có EF <40%, những bệnh nhân này đã được điều trị tối ưu với UCMC và ức chế bêta mà vẫn còn triệu chứng suy tim. Hoặc bệnh nhân không dung nạp với UCMC. Điều trị với ARB, giúp cải thiện chức năng tâm thất, bệnh nhân khỏe hơn, và giảm nhập viện vì suy tim nặng. (Nhóm I, mức chứng cứ A)
Chứng cứ:
Các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (Val-HeFT và CHARM) đã chứng minh được vai trò của ARBs trong điều trị suy tim:
o   Làm giảm tỷ lệ tử vong và nhập viện ở bệnh nhân suy tim NYHA II-IV.
o   Không khác biệt đáng kể giữa ARBs và UCMC về tỷ lệ tử vong hoặc nhập viện.
o   Kết hợp ARBs  và UCMC làm giảm tỷ lệ tử vong tim mạch và nhập viện ở bệnh nhân suy tim khi so với điều trị UCMC  đơn độc.
Chỉ định sử dụng ARBs (theo các thử nghiệm lâm sàng):
Suy tim và có EF <40%.
Thay thế UCMC để điều trị suy tim NYHA II-IV trong trường hợp bệnh nhân không dung nạp UCMC
Hoặc bệnh nhân vẫn còn triệu chứng suy tim (NYHA II-IV) mặc dù đã được điều trị tối ưu với UCMC và ức chế bêta.
Chống chỉ định của ARBs:
o   Các chống chỉ định của ARBs giống như chống chỉ định của UCMC.
o   Bệnh nhân đang điều trị với UCMC và kháng aldosterone.
Cách sử dụng ARBs trong điều trị suy tim
Trước khi điều trị với ARBs, phải kiểm tra chức năng thận và Iôn đồ máu. Khởi đầu liều thấp và tăng dần. Đánh giá lại chức năng thận và Iôn đồ sau 1 tuần điều trị.
Xét tăng liều sau 2-4 tuần điều trị. Không tăng liều khi chức năng thận bệnh nhân xấu đi hoặc tăng kali máu. Kiểm tra lại chức năng thận ở thời điểm 1 tuần và 4 tuần sau tăng liều.
Liều ARBs sử dụng để điều trị suy tim: phải đạt được liều đích, hoặc liều tối đa mà bệnh nhân dung nạp được. Vì vậy, nếu không có suy thận nặng hơn hoặc tăng kali máu, chúng ta phải tăng liều ARBs để đạt được liều đích trong điều trị suy tim.
Sau khi đạt được liều đích của ARBs, phải đánh giá lại chức năng thận và điện giải đồ sau 1 tháng, 3 tháng và mỗi 6 tháng sau đó.
v  Liều lượng thuốc ức chế thụ thể:

          Bảng 2. Liều thuốc UCMC, ARBS và ức chế bêta trong điều trị suy tim
(3)   ỨC CHẾ BÊTA (-)
Là thuốc cơ bản và chủ lực để điều trị suy tim
Có nhiều bằng chứng qua các thử nghiệm lâm sàng
Có 3 thuốc được khuyến cáo trong điều trị: carvedilol, metoprolol và bisoprolol
Khởi đầu liều thấp và tăng dần đến liều đích
v  Khuyến cáo sử dụng ức chế bêta cho tất cả bệnh nhân suy tim và có EF <40%, trừ khi có chống chỉ định hoặc không dung nạp với thuốc. Điều trị với  (-), giúp cải thiện chức năng tâm thất, bệnh nhân khỏe hơn, giảm nhập viện vì suy tim nặng, và kéo dài tuổi thọ. (Nhóm I, mức chứng cứ A).
v  Các thử nghiệm lâm sàng sử dụng ức chế bêta trong điều trị suy tim: Bốn thử nghiệm lớn (CIBIS II, COPERNICUS, MERIT-HF và CAPRICORN) đã chứng minh được vai trò của  (-) trong điều trị suy tim mạn.
Bảng 3. Hiệu quả ức chế bêta điều trị suy tim trong các thử nghiệm lâm sàng
v      Chỉ định của  (-) trong điều trị suy tim:
·       Suy tim và có EF <40%
·       Suy tim NYHA II-IV
·       Bệnh nhân có rối loạn chức năng tâm thu thất trái không triệu chứng sau NMCT
·       Tối ưu hóa liều UCMC hoặc ARBs
v      Chống chỉ định:
·            Hen phế quản
·            Nhịp chậm xoang (nhịp tim < 50 lần/phút)
·            Hội chứng suy nút xoang (sick sinus syndrome)
·            Block nhĩ thất độ II, độ III
·            Huyết áp thấp (huyết áp tâm thu < 90 mmHg)
Cách sử dụng ức chế bêta trong điều trị suy tim:
Liều khởi đầu: khởi đầu liều thấp. Bisoprolol 1.25 mg/ngày, carvedilol 3.225-6.25 mg 2 lần/ngày, metoprolol CR/XL 12.5-25 mg/ngày hoặc nebivolol 1.25 mg/ngày.
Tăng liều  (-) mỗi 2-4 tuần. Đạt được liều đích trong 8-12 tuần.
Không tăng liều  (-) nếu bệnh nhân có biểu hiện của suy tim nặng hơn, tụt huyết áp có triệu chứng, hoặc nhịp chậm (< 50 lần/phút).
Nếu không có các dấu hiệu trên, tăng liều  (-) gấp đôi đến khi đạt được liều đích (liều hiệu quả trong các thử nghiệm lâm sàng). Liều đích của  (-): Bisoprolol 10 mg/ngày, carvedilol 25- 50mg 2lần/ngày, metoprolol CR/XL 200mg/ngày hoặc nebivolol 10 mg/ngày.
Các tác dụng phụ nặng:
·       Tụt huyết áp nặng có triệu chứng. Thường cải thiện theo thời gian. Xem xét giảm liều các thuốc hạ áp khác (ngoại trừ UCMC, ARBs), chẳng hạn như: nitrat hoặc lợi tiểu.
·       Suy tim nặng hơn. Tăng liều lợi tiểu và vẫn giữ ức chế bêta liều thấp.
·       Nhịp chậm. Đo ECG 12 chuyển đạo, nếu cần mắc holter ECG 24 giờ để đánh giá đầy đủ về loạn nhịp chậm trong 24 giờ. Xem xét ngưng các thuốc làm nhịp chậm, chẳng hạn như: digoxin hoặc verapamil, diltiazem. Giảm liều hoặc ngưng  (-).
(4)   LỢI TIỂU
Khuyến cáo sử dụng lợi tiểu cho bệnh nhân suy tim có triệu chứng cơ năng và thực thể của sung huyết (sung huyết phổi hoặc phù ngoại vi: tĩnh mạch cổ nổi, gan to, chân phù). (Nhóm I, mức chứng cứ B).
Lợi tiểu giúp làm giảm triệu chứng cơ năng và triệu chứng thực thể của sung huyết phổi và phù ngoại vi ở bệnh nhân suy tim.
Lợi tiểu gây ra hoạt hóa hệ renin-angiotensin-aldosterone ở bệnh nhân suy tim nhẹ và nên kết hợp lợi tiểu với UCMC hoặc ARBs.
Liều lợi tiểu tùy thuộc vào từng bệnh nhân và cần phải theo dõi trên lâm sàng khi sử dụng thuốc.
Nhìn chung, lợi tiểu quai thường được sử dụng ở bệnh nhân suy tim mức độ trung bình-nặng.
Trong những trường hợp khó kiểm soát phù, phối hợp lợi tiểu nhóm thiazide và lợi tiểu quai. Nhưng phải thận trọng tránh mất nước, giảm thể tích tuần hoàn và rối loạn điện giải (giảm natri máu, giảm kali máu). Cần  theo dõi Natri máu, Kali máu và creatinin trong quá trình điều trị lợi tiểu.
v      Lợi tiểu và UCMC/ARBs/kháng aldosterone: Khi phối hợp giữa lợi tiểu và các thuốc UCMC/ARBs, hoặc kháng aldosterone cần chú ý các vấn đề sau:
Giảm thể tích tuần hoàn và giảm Natri máu do dùng lợi tiểu quá mức làm tăng nguy cơ tụt huyết áp vàgây ra rối loạn chức năng thận ở bệnh nhân đang điều trị với UCMC, ARBs.
Thường không cần bù Kali
Tăng Kaili máu có thể do phối hợp giữa lợi tiểu giữ Kaili và UCMC/ARBs. Do đó phải theo dõi Kali máu khi phối hợp giữa 2 nhóm thuốc trên với nhau.
v      Cách sử dụng lợi tiểu trong điều trị suy tim
·            Trước khi bắt đầu điều trị với lợi tiểu, phải kiểm tra chức năng thận và điện giải đồ.
·            Hầu hết bệnh nhân được sử dụng lợi tiểu quai (nhóm thiazide ít được sử dụng hơn), do tính chất lợi tiểu mạnh của thuốc.
Liều lợi tiểu
·            Bắt đầu với liều thấp và tăng liều đến khi có cải thiện lâm sàng, giảm các triệu chứng sung huyết.
·            Cần điều chỉnh liều sau khi bệnh nhân đã giảm các triệu chứng sung huyết, để tránh nguy cơ mất nước và rối loạn chức năng thận. Mục đích là duy trì lợi tiểu liều thấp nhất có hiệu quả.
·            Điều chỉnh liều lợi tiểu dựa vào cân nặng hàng ngày của bệnh nhân và các dấu hiệu lâm sàng của sung huyết.
Bảng 4. Liều lợi tiểu trong điều trị suy  tim
Bảng 5. Liều lợi tiểu quai điều trị suy tim
(5)   SPIRONOLACTONE
Khuyến cáo sử dụng kháng aldosterone liều thấp ở bệnh nhân suy tim với phân suất tống máu thất trái <35% (EF< 35%) và suy tim NYHA III-IV, không có tăng kali máu và suy thận nặng. Kháng aldosterone làm giảm nhập viện do suy tim nặng và kéo dài tuổi thọ khi thêm vào phác đồ điều trị suy tim đang có(có UCMC) (Nhóm I, mức chứng cứ B).
Thử nghiệm lâm sàng chứng minh vai trò của kháng aldosterone trong điều trị suy tim. Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng RALES chứng minh: “Điều trị với spironolactone giúp làm giảm nguy cơ tương đối của tử vong 30%, và giảm nguy cơ tương đối của nhập viện do suy tim nặng 35% trong vòng 2 năm sau điều trị”. Spironolactone cũng cải thiện phân độ chức năng NYHA trong suy tim.

Spironolactone có thể gây ra vú to và đau ở nam (khoảng 10% so với nhóm dùng giả dược trong thử nghiệm RALES). Tác dụng phụ này ít gặp hơn ở nhóm bệnh nhân sử dụng eplerenone. Nếu có tác dụng phụ vú to và đau do sử dụng spironolactone, thay thế spionolactone bằng eplerenone. 
Chỉ định sử dụng kháng aldosterone:
·       Suy tim NYHA III-IV với phân suất tống máu thất trái <35%
·       Tối ưu liều  (-), và UCMC hoặc ARBs
Chống chỉ định:
·       Kali máu > 5 mmol/L
·       Creatinin máu > 2.5 mg/dl (> 220 µmol/L)
·       Sử dụng cùng lúc với lợi tiểu giữ kali, hoặc thuốc chứa kali
·       Đang kết hợp giữa UCMC và ARBs
Cách sử dụng spironolactone trong suy tim:
·       Trước khi điều trị với spironolactone hoặc eplerenone phải kiểm tra chức năng thận và iôn đồ máu.
·       Liều khởi đầu: spironolactone 25 mg/ngày, hoặc eplerenone 25 mg/ngày.
·       Đánh giá lại chức năng thận và iôn đồ sau 1 tuần và 4 tuần sau điều trị.
·       Xét tăng liều sau 4-8 tuần điều trị. Không tăng liều nếu bệnh nhân có suy thận và tăng kali máu.
·       Tăng liều đến khi đạt được liều đích: spironolactone 50 mg/ngày, hoặc eplerenone 50 mg/ngày.
·       Sau khi đạt được liều đích, phải đánh giá lại chức năng thận và điện giải đồ sau 1 tháng, 3 tháng và mỗi 6 tháng sau đó.
Tác dụng phụ nặng:
·       Tăng kali máu. Nếu kali máu tăng > 5.5 mmol/L, giảm 1/2 liều spironolactone hoặc eplerenone. Nếu kali máu tăng ≥ 6 mmol/L, ngưng spironolactone và điều trị tăng kali máu.
·       Suy thận nặng hơn. Nếu creatinin > 2.5 mg/dl (> 220 µmol/L), giảm 1/2 liều spironolactone hoặc eplerenone. Nếu creatinin > 3.5mg/dl (> 310µmol/L), ngưng spironolactone hoặc eplerenone.
·       Vú to hoặc đau. Thay spironolactone bằng eplerenone.
(6)   DIGOXIN
Bệnh nhân suy tim có triệu chứng và rung nhĩ đáp ứng thất nhanh, sử dụng digoxin để kiểm soát tần số thất (làm chậm đáp ứng thất nhanh).
Bệnh nhân rung nhĩ và có phân suất tống máu tâm thu thất trái <40%, nên sử dụng digoxin để kiểm soát nhịp tim trước khi điều trị với ức chế bêta hoặc thêm vào phác đồ điều trị đang có sẵn  (-). (Khuyến  cáo thuộc nhóm I, mức chứng cứ C).
Bệnh nhân suy tim có triệu chứng, nhịp xoang và phân suất tống máu tâm thu thất trái <40%, điều trị với digoxin cải thiện chức năng thất, cải thiện triệu chứng, giảm nhập viện do suy tim nặng, nhưng không có hiệu quả kéo dài tuổi thọ. (Khuyến cáo nhóm IIa, mức chứng cứ C)
Chỉ định sử dụng digoxin:
·       Suy tim kèm rung nhĩ đáp ứng thất nhanh.
·       Suy tim, nhịp xoang kèm theo EF <40%, mức độ suy tim từ nhẹ-nặng (NYHA II-IV). Bệnh nhân trước khi dử dụng digoxin phải được điều trị tối ưu với UCMC hoặc ARBs, ức chế bêta và kháng aldosterone.
Chống chỉ định:
·       Block nhĩ thất độ II, block nhĩ thất độ III (chưa được đặt máy tạo nhịp vĩnh viễn).
·       Hội chúng suy nút xoang
·       Hội chứng kích thích sớm
·       Có bằng chứng trước đây cho thấy không dung nạp với digoxin.
Cách sử dụng digoxin:
Thường không cần sử dụng liều tải digoxin ở bệnh nhân ổn định, nhịp xoang.
Liều duy trì hàng ngày 0.25 mg ở bệnh nhân người lớn, có chức năng thận bình thường.
Giảm liều digoxin xuống 0.0625 mg-0.125 mg/ ngày, ở bệnh nhân già và bệnh nhân suy thận.
Kiểm tra nồng độ digoxin trong máu khi điều trị digoxin lâu dài. Không có bằng chứng của việc đo nồng độ digoxin thường qui sẽ có cải thiện lâm sàng tốt hơn.
Nồng độ digoxin trong máu nên giữ ở khoảng 0.6-1.2 ng/ml.
Một số thuốc có thể làm tăng nồng độ digoxin máu: amiodarone, diltiazem, verapamil, quinidine, kháng sinh.
Tác dụng phụ nặng:
§      Block xoang nhĩ và block nhĩ thất
§      Loạn nhịp nhĩ và loạn nhịp thất, đặc biệt khi có hạ kali máu đi kèm. Kháng thể Fab chuyên biệt với digoxin nên sử dụng trong tình huống ngộ độc digoxin có loạn nhịp thất.
§      Dấu hiệu ngộ độc digoxin: lú lẫn, buồn nôn, chán ăn, rối loạn thị giác về màu sắc.
(7)   HYDRALAZINE KẾT HỢP VỚI NITRATE
Bệnh nhân suy tim có triệu chứng với phân suất tống máu thất trái < 40%, kết hợp hydralazine (H) và isosorbide dinitrate (ISDN) là liệu pháp thay thế để điều trị suy tim khi bệnh nhân không dung nạp với UCMC hoặc ARBs.
Xem xét thêm H-ISDN để điều trị suy tim ở bệnh nhân vẫn còn triệu chứng, mặc dù đã được điều trị tối ưu với UCMC, ức chế bêta và kháng aldosterone. Giúp làm giảm tỉ lệ tử vong. (Nhóm IIa, mức chứng cứ B)
Giảm nhập viện do suy tim nặng. (Nhóm IIa, mức chứng cứ B)
Cải thiện chức năng thất và khả năng gắng sức. (Nhóm IIa, chứng cứ B)
Các thử nghiệm lâm sàng chứng minh vai trò của phối hợp H-ISDN trong điều trị suy tim:
§      Nghiên cứu V-HeFT-I: phối hợp giữa hydralazin và isosorbide dinitrate giúp giảm nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân trong thời gian theo dõi trung bình 2.3 năm (nguy cơ tương đối giảm 22%, nguy cơ tuyệt đối giảm 5.3%, NNT =19). Ngoài ra, nghiên cứu còn ghi nhận H-ISDN giúp tăng khả năng gắng sức và tăng phân suất tống máu thất trái khi so với nhóm chứng.
§      Nghiên cứu A-HeFT: nghiên cứu này cho thấy kết hợp giữa hydralazin và isosorbide dinitrate làm giảm đáng kể tỉ lệ tử vong (với RRR=43%, ARR=4.0%, NNT=25). H-ISDN làm giảm nguy cơ nhập viện vì suy tim (RRR=33%), và cải thiện chất lượng cuộc sống.
§      Nghiên cứu V-HeFT-II: Kết hợp giữa hydralazin và isosorbide dinitrate làm tăng tỉ lệ tử vong do mọi nguyên nhân (nguy cơ tương đối tăng 28%).
§      Tác dụng phụ thường gặp nhất do kết hợp H-ISDN: nhức đầu, chóng măt, tụt huyết áp và buồn nôn. Đau khớp nhiều phải ngưng thuốc hoặc giảm liều, xảy ra khoảng 5-10% bệnh nhân trong nghiên cứu V-HeFT I và II, kháng thể kháng nhân (+) trong 2-3% bệnh nhân, nhưng tỉ lệ bệnh nhân bị hội chứng giống lupus đỏ rất hiếm.
Chỉ định phối hợp giữa hydralazin và isosorbide dinitrate:
§      Thay thế UCMC hoặc ARBs do bệnh nhân không dung nạp.
§      Thêm vào phác đồ điều trị suy tim hiện có (UCMC, ức chế bêta, kháng aldosterone) ở bệnh nhân vẫn còn triệu chứng suy tim.
§      Phối hợp này rất có hiệu quả ở nhóm người Mỹ gốc Phi. (Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng đã chứng minh- A-HeFT).
Chống chỉ định:
·       Tụt huyết áp có triệu chứng
·       Hội chứng Lupus
·       Suy thận nặng
Cách sử dụng phối hợp giữa hydralazin và isosorbide dinitrate trong điều trị suy tim:
·       Liều khởi đầu: hydralazin 37.5 mg và ISDN 20 mg x 3 lần/ngày.
·       Xét tăng liều mỗi 2-4 tuần. Không tăng liều nếu có tụt huyết áp.
·       Nếu bệnh nhân dung nạp, tăng liều để đạt được liều đích: hydralazin 75 mg và ISDN 40 mg x 3 lần/ngày.
Tác dụng phụ nặng:
·       Tụt huyết áp có triệu chứng
·       Đau cơ, đau khớp, sưng khớp, viêm màng phổi, viêm màng tim, phát ban và sốt. Đánh giá xem bệnh nhân có bị hội chứng giống lupus đỏ không, xét nghiệm kháng thể kháng nhân (ANA). Nếu có tác dụng phụ nhiều, nên ngưng thuốc.
Biểu đồ 3. So sánh H-ISDN với Prazosin và giả dược ở nghiên cứu VHeFT-1 về tỉ lệ sống còn trong điều trị suy tim.
(8)   Nitrat
v      Nitroglycerin là thuốc dãn mạch được ưa chuộng để điều trị suy tim trong bệnh cảnh của NMCT cấp hoặc đau thắt ngực không ổn định. Trong suy tim cấp, nitroglycerin có tác dụng làm giảm sung huyết phổi và giảm tiền tải (do giãn tĩnh mạch). Trong suy tim mạn nitrat cũng có tác dụng giãn tĩnh mạch và làm giảm triệu chứng của sung huyết phổi và sung huyết tĩnh mạch.
Cơ chế: làm giảm nhu cầu ôxy cơ tim do gây giãn mạch làm giảm tiền tải và một phần hậu tải thất trái. Nitrates liều cao có tác dụng giãn động mạch dẫn đến giảm hậu tải. Ngoài ra nitrates còn có tác dụng giãn ĐM vành do đó làm tăng cung cấp ôxy cho cơ tim.
Tác dụng phụ: tác dụng phụ thường gặp là đau đầu do dãn mạch não, bừng mặt, chống mặt, hạ huyết áp.
Chống chỉ định: Tụt huyết áp (huyết áp tâm thu < 90 mmHg), nhồi máu thất phải, nhịp tim nhanh > 110 lần/phút hoặc < 50 lần/phút, đang sử dụng sildenafil.
v      Khi sử dụng thuốc nitrates lâu dài sẽ có hiện tượng quen thuốc (dung nạp thuốc), do đó để tránh hiện tượng này chúng ta không nên dùng thuốc liên tục, mà phải có khoảng nghỉ (dùng ngắt quảng).
Bảng  các dạng Nitrates
Thành phần
Đường dùng
Liều
Thời gian tác dụng
Nitroglycerin
Viên ngậm dưới lưỡi
0.3–0.6 mg đến 1.5 mg
Gần  10 phút
Dạng xịt
0.4 mg
Tương tự viên ngậm dưới lưỡi
Mỡ bôi
7.5-40 mg
 7 giờ
Miếng dán
0.2–0.8 mg/giờ, mỗi 12 giờ
8–12 giờ
Viên uống phóng thích chậm
2.5–13 mg
4–8 h
Dạng truyền TM
5–200 µg/phút
Dung nạp trong 7–8 giờ
Isosorbide dinitrate
Viên dưới lưỡi
2.5–10 mg
 60 phút
Viên uống
5–80 mg, 2–3 lần/ngày
 8 giờ
Dạng xịt
1.25 mg/ngày
2–3 phút
Dạng nhai
5 mg
2–2½ giờ
Viên uống phóng thích chậm
40 mg 1–2 lần/ngày
 8 giờ
Tĩnh mạch
1.25–5.0 mg/giờ
Dung nạp trong 7–8 giờ
Mỡ bôi
100 mg/24 giờ
Không hiệu quả
Isosorbide mononitrate
Viên uống
20 mg 2 lần/ngày
60–240 mg 1 lần/ngày
12–24 giờ
Pentaerythritol tetranitrate
Viên dưới lưỡi
10 mg
Không rõ

(9)            BNP tái tổ hợp (Nesiritide)
Là thuốc giãn động mạch và tĩnh mạch.
Nesiritide truyền tĩnh mạch làm giảm áp lực cuối tâm trương thất trái, giảm áp lực nhĩ phải và giảm kháng lực mạch máu, dẫn đến làm tăng cung lượng tim.
Nesiritide được sử dụng trong suy tim cấp và làm giảm triệu chứng suy tim ngay sau khi truyền tĩnh mạch.
Không khuyến cáo sử dụng nesiritide để điều trị ngoại trú ở bệnh nhân suy tim mạn.
Liều sử dụng: Bolus tĩnh mạch 2 mcg/kg, sau đó duy trì truyền tĩnh mạch liên tục với liều khởi đầu 0.01 mcg/kg/phút.
Tác dụng phụ thường gặp nhất khi dùng nesiritide là tụt huyết áp, do đó tránh sử dụng nesiritide ở bệnh nhân có huyết áp tâm thu < 90 mmHg, hoặc có bằng chứng của choáng tim. Đang truyền nesiritide mà bệnh nhân có tụt huyết áp, phải ngưng thuốc và bù dịch (thận trọng tránh quá tải tuần hoàn), hoặc dùng thuốc vận khi cần để nâng huyết áp.
(10)       Thuốc trợ tim
(a)           Dobutamine: Dobutamine có tác dụng kích thích thụ thể 1 và thụ thể 2 ở tế bào cơ tim, làm tăng sức co bóp cơ tim và giãn mạch, dẫn đến làm tăng cung lượng tim và giảm hậu tải. Thuốc được sử dụng bằng đường truyền tĩnh mạch, với liều khởi đầu 2-3 µg/kg/phút, tăng dần liều đến khi có tác dụng trên lâm sàng. Có thể tăng liều dobutamine lên đến 15 µg/kg/phút. Ơ bệnh nhân trước đó có dùng thuốc ức chế bêta, liều dobutamine có thể tăng đến 20 µg/kg/phút. Dobutamine không có hiệu quả ở nhóm bệnh nhân suy tim tâm trương hoặc suy tim cung lượng cao. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy dùng dobutamine liên tục làm tăng nguy cơ tử vong.
(b)           Dopamine
Sử dụng dopamine để nâng huyết áp ở những bệnh nhân suy tim nặng có huyết áp tâm thu < 90 mmHg.
Dopamine có tác dụng kích thụ thể 1 và thụ thể 2 ở tế bào cơ tim làm tăng nhịp tim, tăng sức co bóp cơ tim. Tùy thuộc vào liều dopamine được sử dụng mà có các hiệu quả khác nhau trên lâm sàng. Dopamine liều 1-< 3 µg/kg/phút, có tác dụng lợi tiểu, do kích thích thụ thể dopaminergic ở thận. Liều 3-5 µg/kg/phút, có tác dụng tăng sức co bóp cơ tim. Liều > 5 µg/kg/phút có tác dụng tăng co bóp cơ tim và gây co mạch (do tác động lên thụ thể ), dẫn đến tăng huyết áp. Sử dụng dopamine liều cao làm tăng nguy cơ loạn nhịp nhanh và gây co mạch à tăng kháng lực mạch máu.
(c)           Các thuốc ức chế phosphodiesterase
Nhóm thuốc này làm tăng co bóp cơ tim và dãn mạch qua cơ chế làm tăng adenosine monophosphate vòng trong nội bào.
Milrinone: thuốc đã được sử dụng trên lâm sàng và được chỉ định để điều trị suy tim nặng. Có thể gây tụt huyết áp ở bệnh nhân đang được điều trị thuốc dãn mạch, hoặc bệnh nhân có giảm thể tích tuần hoàn. Milrinone có thể cải thiện huyết động khi kết hợp với dopamine hoặc dobutamine. Các nghiên cứu gần đây cho thấy sử dung milrinone  ngắn hạn trong giai đoạn nằm viện, thêm vào phác đồ điều trị chuẩn, không làm giảm thời gian nằm viện hoặc tỉ lệ tử vong trong 60 ngày, hoặc tỉ lệ tái nhập viện khi so với nhóm giả dược.
 Liều milrinone: truyền tĩnh mạch liều đầu 50 µg/kg trong 10 phút, sau đó truyền tĩnh mạch 0.375-0.75 µg/kg/phút.
Amrinone: tiêm mạch liều đầu 750 µg/kg trong 2-3 phút, sau đó truyền tĩnh mạch 2.5-10 µg/kg/phút.
(11)       Ưc chế canxi (CCB)
Ưc chế canxi thế hệ đầu tiên làm tình trạng suy tim sung huyết nặng hơn, đặc biệt khi dùng verapamil hoặc diltiazem. Hai thử nghiệm gần đây chứng minh amlodipin được sử dụng tương đối an toàn ở bệnh nhân suy tim nặng.
Các khuyến cáo hiện nay khuyên, nên tránh sử dụng nhóm ức chế canxi ở bệnh nhân có suy tim. Amlodipin là thuốc được ưu tiên sử dụng ở bệnh nhân suy tim có kèm theo đau thắt ngực hoặc tăng huyết áp.
(12)       Kháng đông
Bệnh nhân suy tim trái và có phân suất tống máu thất trái giảm, sẽ có nguy cơ tạo huyết khối trong buồng tim trái và gây thuyên tắc mạch. Nguy cơ này thường gặp ở bệnh nhân có rung nhĩ hoặc bệnh nhân có tiền căn bị NMCT vùng trước rộng. Nhóm bệnh nhân này nên được sử dụng kháng đông đường uống (warfarin hoặc sintrom) ít nhất 3 tháng sau NMCT.
Tỉ lệ gây thuyên tắc mạch ở bệnh nhân suy tim khoảng 2/100 bệnh nhân/năm theo dõi, và tỉ lệ chảy máu nặng do kháng đông cũng trong khoảng khoảng 2/100 bệnh nhân/năm. Do đó chỉ sử dụng kháng đông ở nhóm bệnh nhân sau: có tiền căn thuyên tắc mạch, hoặc rung nhĩ, hoặc có huyết khối trong buồng thất trái.
Khuyến cáo sử dụng Warfarin (hoặc sintrom) ở bệnh nhân suy tim có kèm rung nhĩ (cấp hoặc mạn). Kháng đông làm giảm nguy cơ các biến chứng do thuyên tắc huyết khối, bao gồm cả biến chứng đột quị (Nhồi máu não). (nhóm I, chứng cứ A).
(13)       Statin
Hai thử nghiệm lâm sàng CORONA và GISSI-HF không ghi nhận được ích lợi của statin ở bệnh nhân suy tim.
(14)   Procoralan
Procoralan là thuoc ức chế chọn lọc kênh If ở nút xoang, làm giảm triền khử cực trong quá trình tự khử cực của các tế bào phát xung nên làm chậm nhịp xoang. Thuốc không có tác dụng trên dẫn truyền nhĩ thất, không tác dụng trên sự co bóp của cơ tim, không tác dụng trên huyết áp. Ứng dụng tác dụng này để điều trị cho những bệnh nhân suy tim do mọi nguyên nhân với nhịp tim tương đối nhanh, Nghiên cứu SHIFT trên 6558 bệnh nhân vừa được công bố trong hội Tim Mạch Châu Âu 2010 mở ra một hướng mới trong điều trị suy tim cho những bệnh nhân suy tim từ độ II - IV theo phân loại chức năng của NYHA với nhịp tim > 70 lần/phút dù đã được điều trị theo khuyến cáo hiện hành bao gồm thuốc ức chế men chuyễn (hoặc ức chế thụ thể Angiotensin II), ức chế Bêta, lợi tiểu, kháng aldosterone và digoxin. Việc sử dụng Procoralan ở liều từ 5 - 7,5 mg 2 lần/ngày làm giảm một cách có ý nghĩa thống kê tổ hợp tiêu chí chính là tỉ lệ bệnh nhân tử vong do nguyên nhân tim mạch và nhập viện do suy tim tăng nặng 18% (p<0,0001). Tỉ lệ nhập viện do suy tim giảm 26% (p<0,0001) và tỉ lệ tử vong do suy tim giảm 26% (p<0,014).
2.              LIỆU PHÁP ĐIỀU TRỊ KHÁC KHÔNG PHẪU THUẬT (SỬ DỤNG DỤNG CỤ)
(1)           Tái thông mạch vành:tái thông mạch vành giúp làm giảm thiếu máu cục bộ và cải thiện chức năng co bóp của thất trái ở bệnh nhân suy tim do bệnh động mạch vành.
(2)           Tái đồng bộ tim hay tạo nhịp hai buồng thất (Cardiac resynchronization therapy: CRT hoặc Biventricular pacing)
Tái đồng bộ tim (CRT) là phương pháp sử dụng máy tạo nhịp nhằm tạo sự co cơ đồng bộ giữa vách tự do thất trái và vách liên thất, dẫn đến tăng hiệu quả tống máu thất trái. Máy tạo nhịp này sẽ có 3 điện cực: một điện cực được đặt ở nhĩ phải, một ở thất phải, và điện cực ở thất trái (qua đường xoang vành đến tận tĩnh mạch sát vách tự do thất trái).
Có hai dạng CRT-P (chỉ chức năng tạo nhịp) và CRT-D (ngoài tạo nhịp còn có chức năng khử rung).
Khuyến cáo sử dụng CRT-P và CRT-D ở bệnh nhân suy tim NYHA III-IV, vẫn còn triệu chứng mặc dù đã được điều trị nội khoa tối ưu, EF < 35%, phức bộ QRS rộng > 120 ms và nhịp xoang. CRT giúp làm giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong ở nhóm bệnh nhân trên.(Nhóm I, chứng cứ A).
Hiện nay trong thực hành lâm sàng ưa chuộng sử dụng CRT-D hơn CRT-P, do ngoài chức năng tạo nhịp-CRT-D còn có chức năng khử rung-giúp phòng ngừa đột tử ở bệnh nân suy tim.
Các thử nghiệm lâm sàng lớn như: COPANION, CARE-HF, PROSPECT đã chứng minh hiệu quả của điều trị bằng CRT, giúp cải thiện triệu chứng suy tim (cải thiện phân độ NYHA), cải thiện chất lượng cuộc sống, khả năng gắng sức và làm giảm tỉ lệ tử vong.

(3)   Đặt máy chuyển nhịp phá rung (Implantable Cardiac Defibrillator: ICD)
Chỉ định đặt ICD: (nhóm I, mức chứng cứ A)
·       Bệnh nhân còn sống sót sau biến cố rung thất hoặc nhanh thất (phòng ngừa thứ phát)
·       Bệnh nhân có bệnh cơ tim dãn nở, không do thiếu máu cục bộ (phòng ngừa nguyên phát)
·       Bệnh tim thiếu máu cục bộ > 40 ngày sau NMCT (phòng ngừa nguyên phát)
·       EF ≤ 35%, suy tim NYHA II hoặc NYHA III, mặc dù đã được điều trị nội khoa tối ưu
·       Ước tính thời gian sống còn > 1 năm
·       Không nên đặt ICD ở những tình huống sau: bệnh nhân quá già, tiên lượng sống còn < 1 năm, có bệnh kết hợp tiên lượng tử vong trong thời gian ngắn, và bệnh nhân suy tim giai đoạn cuối không thể ghép tim.
(4)   Đặt bóng nội động mạch chủ (IABP: intraaortic balloon pump)
Xét đặt IABP ở bệnh nhân mà các liệu pháp điều trị khác thất bại, có rối loạn chức năng cơ tim thoáng qua hoặc là phương pháp hỗ trợ cho những bệnh nhân đang chờ ghép tim. Chống chỉ định đặt IABP ở bệnh nhân có hẹp nặng động mạch chậu-đùi, ĐM chủ bụng và hở van ĐM chủ nặng. 
3.      PHẪU THUẬT
(1)   Dụng cụ hỗ trợ thất: cần phẫu thuật để đặt dụng cụ, và được chỉ định ở bệnh nhân suy tim nặng sau phẫu thuật tim, bệnh nhân choáng tim kéo dài sau NMCT cấp, là phương pháp hỗ trợ thất trong giai đoạn chờ ghép tim.
Xét đặt dụng cụ hỗ trợ thất như là liệu pháp sau cùng ở bệnh nhân suy tim giai đoạn cuối và ước tính tỉ lệ tử vong 1 năm > 50% với điều trị nội khoa. (Circulation 2009;119:1977).

(2)   Ghép tim
Là phương pháp được lựa chọn ở bệnh nhân suy tim giai đoạn cuối và không đáp ứng với điều trị nội khoa tích cực, cũng như không đáp ứng với các phương pháp hỗ trợ khác.
Ơ Mỹ có khoảng 2,200 trường hợp được ghép tim hàng năm.
Xét ghép tim ở bệnh nhân sau: tuổi < 65, suy tim nặng NYHA III-IV, đã thất bại với các liệu pháp khác, và không có rối loạn chức năng các cơ quan khác ngoài tim (gan, thận, não, phổi còn tốt).
Tỉ lệ sống còn sau ghép tim khá cao: 90%, 70% và 50% sau 1 năm, 5 năm và 10 năm. Do hiệu quả của thuốc ức miễn dịch (ức chế calcineurin). Cải thiện đáng kể khả năng gắng sức và chất lượng cuộc sống sau ghép tim.
Các biến chứng sau ghép tim: biến chứng thải mảnh ghép cấp và mạn, nhiễm trùng, và các tác dụng phụ do thuốc ức chế miễn dịch.


4.      Thay đổi lối sống và điều chỉnh các yếu tố nguy cơ
·       Hạn chế dịch và ăn lạt (chế độ ăn ít muối Natri)
·       Khuyến khích bệnh nhân ngưng hút thuốc lá
·       Chương trình tập thể dục được khuyến khích ở những bệnh nhân suy tim ổn định, nhằm giúp hỗ trợ thuốc điều trị suy tim. Chương trình tập thể dục hợp lý giúp cải thiện khả năng gắng sức, cải thiện chất lượng cuộc sống và giảm hoạt hóa hệ thần kinh thể dịch. Thử nghiệm lâm sàng HF-ACTION đã chứng minh, vận động thể lực giúp làm giảm tỉ lệ tử vong và nhập viện (JAMA 2009;301:1451; JAMA 2009;301:1439).
·       Khuyến khích giảm cân ở những bệnh nhân béo phì và quá cân.
5.      Các tình huống chuyên biệt khác cần chú ý khi điều trị suy tim
·       Hạn chế dịch (< 1.5 lít/ngày), đặc biệt trong bệnh cảnh của hạ Natri máu (Na+ < 130 mEq/L) và quá tải tuần hoàn.
·       Hạn chế tối đa việc sử dụng các thuốc làm suy tim nặng hơn. Nên tránh sử dụng các thuốc sau ở bệnh nhân suy tim:
·       Thuốc ức chế sức co bóp cơ tim: verapamil, diltiazem.
·       Kháng viêm non-steroid
·       Thuốc rosiglitazone (Avandia) trong điều trị tiểu đường.
·       Thuốc thảo dược có chứa corticoide
·       Cung cấp oxy cho bệnh nhân có giảm oxy máu, giúp làm giảm khó thở, giảm công hô hấp, và hạn chế co thắt mạch máu phổi.
·       Hội chứng ngưng thở lúc ngủ: chiếm tỉ lệ khá cao ở bệnh nhân suy tim (37%). Điều trị với thở máy áp lực dương khi ngủ, giúp cải thiện triệu chứng suy tim và phân suất tống máu thất trái.
·       Chạy thận nhân tạo có nhiều lợi điểm ở bệnh nhân suy tim nặng có kèm theo rối loạn chức năng thận (suy thận), mà các liệu pháp hạn chế dịch và lợi tiểu không kiểm soát được tình trạng quá tải. Chọc dịch màng phổi và dịch màng bụng có thể giúp làm giảm khó thở ở bệnh nhân suy tim nặng. Chú ý không lấy dịch (màng phổi, màng bụng) nhanh quá, vì nguy cơ tụt huyết áp ở bệnh nhân suy tim nặng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.    Brian H, Tang WHW (2009). Heart Failure with Systolic Dysfunction in Manual of Cardiovascular Medicine 3rd. Editors: Brian P. Griffin, Eric J. Topol. Lippincott Williams and Wilkins 2009: 105-122
2.    Brian RL, Stacy AM, Susan MJ, Benico B, Gregory AE (2010). Chapter 4: Heart failure, cardiomyopathy, and valvular heart disease in The Washington Manual of Medical Therapeutics 33rd edition. Editors: Corey Foster; Neville F. Mistry; Parvin F. Peddi; Shivak Sharma. Lippincott Williams and Wilkins; Pages: 155-168.
3.    Guidelines for the diagnosis and treatment of acute and chronic heart failure (2008). The Task Force for diagnosis and treatment of acute and chronic heart failure 2008 of the European Society of Cardiology. European Heart Journal, 29:2388-2442
4.    Joel DS (2009). Management of Acute and Chronic Heart Failure in The Washington Manual of Cardiology Subspecialty Consult 2ndedition. Editors: Phillip S. Cuculich and Andrew M. Kates. Lippincott Williams and Wilkins; p 112-127
5.    Khuyến cáo của Hội Tim mạch học Việt Nam về  “Chẩn đoán, điều trị Suy tim” (2008): 438-475
6.    Mariell LJ, William TA, Donald EC, et al. (2009) ACCF/AHA Guidelines for the Diagnosis and Management of Heart Failure in Adults. Journal of the American College of Cardiology, 53:1343-1382
7.    Phillips J, Schilling J (2009). Clinical Presentations of Heart Failure in The Washington Manual of Cardiology Subspecialty Consult 2ndedition. Editors: Phillip S. Cuculich and Andrew M. Kates. Lippincott Williams and Wilkins; p: 19-23

8.    Thomas MB, Christopher BG (2011). Congestive Heart Failure in Current Medical Diagnosis and treatment 50thedition. Editors: Stephen J. McPhee and Maxine A. Papadakis. Mc Graw Hill: 385-394 

Monday, November 3, 2014

BÀI TẬP LÂM SÀNG XÉT NGHIỆM CHỨC NĂNG GAN - RẤT HAY

Các bệnh lý gan mật hiện nay gặp rất nhiều ở Việt Nam, người Việt Nam uống bia nhiều đặc biệt nằm trong vùng dịch tễ của viêm gan siêu vi B, cứ 5 người thì có 1 người mắc bệnh. Bài tập lâm sàng sẽ cho chúng ta những tình huống để phân biệt các bệnh lý gan mật rất hay, rất cụ thể, giúp chúng ta đánh giá tốt hơn ở giai đoạn sớm của các bệnh gan, đặc biệt là xơ gan.

Link tải: http://www.oni.vn/vkFT2

Bác sĩ A Di

XÉT NGHIỆM PROTHROMBIN TIME VÀ INR

Thời gian prothrombin (PT) là biện pháp kiểm tra phải mất thời gian bao lâu để một cục máu đông hình thành trong một mẫu máu. Trong cơ thể, quá trình đông máu liên quan đến một loạt các phản ứng hóa học liên tiếp gọi là quá trình đông máu, trong đó đông máu hoặc yếu tố "đông" được kích hoạt cái này sau cái khác và kết quả là hình thành một cục máu đông. Phải có đủ số lượng của từng yếu tố đông máu, và phải hoạt động tốt, để đông máu xảy ra bình thường. Quá ít có thể dẫn đến chảy máu quá nhiều, quá nhiều có thể dẫn đến quá đông. 


Trong ống nghiệm, có hai "con đường" khởi đầu đông máu gọi là con đường bên ngoài và bên trong. Cả hai sau đó nhập vào một con đường chung (như hình dạng của chữ "Y") để hoàn tất quá trình đông máu. Một trong những bước cuối cùng của quá trình đông máu, là prothrombin (còn gọi là yếu tố II) được chuyển thành thrombin, nhưng yếu tố II và giai đoạn này không phải là trọng tâm duy nhất của thử nghiệm PT.

Các thử nghiệm PT đánh giá hoạt động của tất cả các yếu tố đông máu trong những con đường bên ngoài và cùng làm việc với nhau trong quá trình đông máu. Bao gồm : Các yếu tố I (Fibrinogen), II (prothrombin), V, VII và X. Các thử nghiệm PT đánh giá khả năng tổng thể để tạo ra một cục máu đông trong một khoảng thời gian hợp lý và, nếu những yếu tố này thiếu hoặc rối loạn chức năng, các PT sẽ được kéo dài.

Các thử nghiệm PT thường được đo trong vài giây và được so sánh với mức bình thường phản ánh giá trị PT ở người khỏe mạnh. Bởi vì các thuốc thử được sử dụng để thực hiện các thử nghiệm PT khác nhau từ một phòng thí nghiệm này với phòng thí nghiệm khác và ngay cả trong phòng thí nghiệm cũng khác nhau qua thời gian, phạm vi bình thường cũng sẽ dao động. Để tiêu chuẩn hóa kết quả trên khắp nước Mỹ và thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ủy ban phát triển và khuyến khích việc sử dụng các tỷ số bình thường hóa quốc tế hóa (INR) với các thử nghiệm PT cho những người được điều trị bằng thuốc chống đông máu warfarin (Coumadin ®).

INR là một tính toán để điều chỉnh những thay đổi trong các thuốc thử PT và cho phép so sánh kết quả từ các phòng thí nghiệm khác nhau . Hầu hết các phòng thí nghiệm hiện đang báo cáo cả PT và giá trị INR bất cứ khi nào một thử nghiệm PT được thực hiện. Tuy nhiên INR chỉ áp dụng đối với những người uống thuốc warfarin chống đông máu .


Xét nghiệm được sử dụng như thế nào?
Thử nghiệm thời gian prothrombin (PT) được chỉ định để chẩn đoán chảy máu không rõ nguyên nhân, thường chỉ định cùng với thử nghiệm thời gian thromboplastin từng phần ( Partial thromboplastin time - PTT). Các thử nghiệm PT đánh giá con đường bên ngoài và con đường chung của quá trình đông máu, trong khi thử nghiệm PTT đánh giá con đường nội tại và con đường chung. Sử dụng cả hai thử nghiệm để tích hợp các chức năng của tất cả các yếu tố đông máu.

Thỉnh thoảng, các xét nghiệm có thể được sử dụng cho một người để tầm soát cho bất kỳ vấn đề chảy máu trước đây không được phát hiện trước khi phẫu thuật.

PT và INR được sử dụng để giám sát hiệu quả của các thuốc chống đông máu warfarin (Coumadin ®). Thuốc này ảnh hưởng đến chức năng của quá trình đông máu và giúp ngăn chặn sự hình thành các cục máu đông. Nó được chỉ định lâu dài cho những người đã trãi qua đông máu không thích hợp tái phát. Chỉ định lâm sàng chung cho sử dụng warfarin trong rung nhĩ, sự hiện diện của van tim nhân tạo , huyết khối tĩnh mạch sâu và thuyên tắc phổi . Warfarin cũng được sử dụng trong hội chứng kháng phospholipid, và đôi khi trong cơn đau tim. Mục tiêu điều trị với warfarin là để duy trì một sự cân bằng giữa việc ngăn ngừa cục máu đông và gây chảy máu quá mức. Sự cân bằng này đòi hỏi phải theo dõi cẩn thận, thường bằng PT / INR.

Khi nào được chỉ định?

Khi một người đang dùng thuốc chống đông máu warfarin, bác sĩ sẽ chỉ định kiểm tra PT / INR định kỳ để đảm bảo rằng việc hoạt động đúng quy định và PT / INR được kéo dài một cách thích hợp. Không có thiết lập tần số để thực hiện các thử nghiệm. Bác sĩ sẽ chỉ định thực hiện thường xuyên, đủ để đảm bảo rằng thuốc đưa đến hiệu quả mong muốn - đó là tăng thời gian đông máu của người đó đến một mức độ điều trị mà không gây chảy máu quá mức hoặc bầm tím.

PT có thể được chỉ định khi người không dùng thuốc chống đông máu có dấu hiệu hoặc triệu chứng của một rối loạn chảy máu, có thể biểu hiện như chảy máu cam, chảy máu nướu răng, bầm tím, chu kỳ kinh nguyệt nặng, máu trong phân và / hoặc nước tiểu , đển loại viêm khớp triệu chứng ( chảy máu vào khớp), giảm thị lực, và thiếu máu mãn tính.

PT, cùng với PTT, thường được chỉ định khi một người phải trải qua một thủ thuật y tế xâm lấn, chẳng hạn như phẫu thuật, để đảm bảo khả năng đông máu bình thường.

Kết quả xét nghiệm có ý nghĩa gì?

Giá trị tham khảo tùy thuộc phương pháp và phòng xét nghiệm, bình thường: 10-12 seconds

Hầu hết các phòng thí nghiệm báo cáo kết quả PT đã được điều chỉnh về INR cho người dùng warfarin. Những người này cần phải có INR từ 2,0-3,0 để "làm loãng máu". Đối với một số người có nguy cơ cao về sự hình thành cục máu đông, chỉ số INR cần phải cao hơn - khoảng 2,5-3,5. Bác sĩ sẽ sử dụng INR để điều chỉnh liều lượng thuốc của một người để có được những PT vào trong phạm vi mong muốn đó là trị số đúng cho một người và nguyên nhân của nó.

Kết quả xét nghiệm PT phụ thuộc vào phương pháp được sử dụng, kết quả đo trong vài giây và so với mức bình thường được thành lập và duy trì bởi các phòng thí nghiệm thực hiện các xét nghiệm. Mức bình thường này đại diện cho giá trị trung bình của những người khỏe mạnh sống trong khu vực đó và sẽ thay đổi đôi chút so với các vùng khác và có thể thay đổi theo thời gian. Vì vậy, một người không dùng warfarin sẽ so sánh kết quả xét nghiệm PT của họ với giá trị bình thường các kết quả xét nghiệm được cung cấp.

Một PT kéo dài có nghĩa là máu phải có một thời gian quá lâu để hình thành một cục máu đông. Điều này có thể gây ra bởi các bệnh như bệnh gan, thiếu vitamin K, hoặc thiếu yếu tố đông máu. Kết quả PT thường được biện luận cùng với các PTT để xác định những nguyên nhân .

Giải thích PT và PTT ở các bệnh nhân chảy máu hoặc hội chứng đông máu
Kết quả PT
Kết quả PTT
Ví dụ về các nguyên nhân có thể xuất hiện
Dài
Bình thường
Bệnh ganthiếu vitamin Kgiảm hoặc yếu tố VII bị khiếm khuyết đông máu nội mạch loan tỏa cấp thấp mãn tính(DIC), điều trị thuốc chống đông (warfarin)
Bình thường
Dài
Giảm hoặc bị khiếm khuyết yếu tố VIIIIXhoặc XI, bệnhWillebrand von (loại nặng), sự hiện diện của kháng đông lupus
Dài
Dài
Giảm hoặc bị khiếm khuyết yếu tố I, II, V hoặc Xbệnh gan nặngDIC cấp
Bình thường
Bình thường hay hơi dài
Có thể cho thấy hiện tượng đông máu bình thường, tuy nhiên, PT  PTT có thể là bình thường trong một số cácnguyên nhân như là thiếu nhẹ trong các yếu tố khác và thểnhẹ của bệnh von WillebrandThử nghiệm thêm nữa có thểđược yêu cầu để chẩn đoán các bệnh này.

Điều gì khác nên biết?
Tiêu thụ một số chất, chẳng hạn như rượucó thể ảnh hưởng đến xét nghiệm PT / INRMột số thuốc kháng sinh có thể làm tăng PT / INRThuốc an thầnthuốc tránh thai và liệu pháp hormon thay thế-(HRT),  vitamin K (hoặc trongvitamin hỗn hợp, bổ sung dinh dưỡng dạng lỏng) có thể làm giảm PT. Một số thực phẩm như thịt bò và gan lợn, trà xanh, bông cải xanh, đậu xanh, cải xoăn, củ cải, và các sản phẩm đậu tươngcó chứa một lượng lớn vitamin K và có thể thay đổi kết quả PT. Điều quan trọng là bác sĩ biết về tất cả các loại thuốcchất bổ sung,  các loại thực phẩm một người đã ăn gần đây để các kết quả PT / INR được hiểu  sử dụng đúng cách.

Một số phòng thí nghiệm sẽ báo cáo một 
PT  một tỷ lệ phần trăm của mức bình thườngmặc dù điều này không phải là phổ biến như báo cáo kết quả trong vài giây.

Câu hỏi thường gặp
1Tôi có nên thực hiện PT cùng một thời điểm trong ngày?

i chung là không cần thiết phải đo PT / INR tại một thời gian nhất định trong ngàyTuy nhiên, quan trọng là bạnuống thuốc warfarin của bạn  cùng một thời gian mỗi ngày để duy trì một mức độ liên tụcNếu bác sĩ của bạn tăng hoặc giảm liều lượng của bạnbác sĩ  thể muốn bạn kiểm tra lại trong một ngày hoặc lâu hơn để đánh giá ảnhhưởng của sự thay đổi liều lượng PT / INR (nó không phải  hiệu lực ngay lập tức).2Đôi khi kết quả PT của tôi khác nhau , nhưng bác sĩ không thay đổi toaTại sao?

Bệnh tật, thay đổi trong chế độ ăn uốngvà một số thuốc (như đã đề cập  trên thể thay đổi kết quả
 PTMột số thực phẩm, chẳng hạn như thịt bò  gan lợn, trà xanh, bông cải xanh, đậu xanh, cải xoăn, củ cải,  các sản phẩm đậu tương chứa một lượng lớn vitamin K  có thể thay đổi kết quả PTKỹ thuật thu gom máu và khó khăn trong việclấy mẫu máu cũng có thể ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệmNếu bác sĩ của bạn có mối quan tâm về sự ổn định củaPT / INR của bạnbác sĩ  thể kiểm tra máu của bạn thường xuyên hơn.
BS NGUYỄN VĂN THỊNH


Sunday, November 2, 2014

ĐĂNG KÝ ONI TẠO CHO CHÚNG TA NGUỒN THU NHẬP TỐT VÀ ĐỀU ĐẶN

ĐĂNG KÝ TẠI ĐÂY http://www.oni.vn?2930 

  • THÔNG TIN CƠ BẢN

    • Oni.vn là gì? Oni.vn hoạt động như thế nào?

      Oni.vn là mạng quảng cáo chia sẻ đầu tiên tại Việt Nam với sứ mạng mang lại nguồn thu nhập cao và ổn định cho cộng đồng yêu thích chia sẻ tại Việt Nam. Oni.vn hoạt động trên 2 chương trình chính là: Hệ thống rút gọn link quảng cáo và mạng quảng cáo thông minh Smart Ads
    • Oni.vn mang lại lợi ích gì cho tôi?

       Oni.vn là mạng quảng cáo chia sẻ hàng đầu tại Việt Nam, chúng tôi mang đến 1 giải pháp tạo nên nguồn thu nhập tốt và đều đặng cho cộng đồng những người yêu thích công việc chia sẻ giá trị. Thông qua chương trình đó, Oni.vn cung cấp cho các đối tác là cá nhân và doanh nghiệp một giải pháp mới để quảng bá hình ảnh, thương hiệu sản phẩm/dịch vụ của mình đến hàng triệu người tiêu dùng với chi phí thấp nhất.
  • VỀ PUBLISHER

    • Tôi có thể kiếm được bao nhiêu tiền từ Oni.vn?

       Với Oni.vn, bạn có thể kiếm là vài triệu, vài chục triệu, thậm chí hàng trăm triệu... nhưng có thể chỉ là vài nghìn đồng một tháng, tất cả đều phụ thuộc vào bạn. Bạn yên tâm, chúng tôi tạo ra chính sách tối ưu nhất và công bằng nhất giúp bạn có thể đạt được mức thu nhập cao nhất có thể so với năng lực của bạn. Việc còn lại là do bạn.
    • Oni.vn lấy tiền từ đâu để chi trả cho chúng tôi?

       Oni.vn là mạng quảng cáo chia sẻ, chúng tôi kết hợp với Publisher để tạo ra một kênh quảng bá và phân phối sản phẩm/ dịch vụ cho các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp có nhu cầu. Từ đó, Oni.vn sẽ thu một khoản phí dịch vụ quảng cáo và phân chia lại một cách công bằng và hợp lý nhất cho Publisher.
    • Nếu tôi giới thiệu bạn bè tham gia Oni.vn, tôi có được lợi ích gì không?

       Có, điều đó là chắc chắn! Với Oni.vn, chúng tôi trân trọng tất cả những gì mà bạn đóng góp, bạn sẽ nhận được 1 khoản hoa hồng biết ơn từ hệ thống của Oni.vn là 10% trên tính trên tổng thu nhập của người mà bạn giới thiệu cho chúng tôi. Thu nhập này là không giới hạn về thời gian và số lượng.
    • Khi tham gia Oni.vn, tôi có phải mất chi phí gì không?

       Không, bạn không phải mất bất kỳ một khoản phí nào cả. Tất cả đều hoàn toàn miễn phí!
    • Tôi sẽ nhận tiền từ Oni.vn như thế nào?

       Oni.vn sẽ chốt và đối soát doanh thu hàng tháng của bạn vào ngày 10 tây của tháng kế tiếp và sẽ hoàn tất thanh toán cho bạn vào ngày 20 hàng tháng. Số tiền tối thiểu mà bạn được thanh toán phải từ 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng) trở lên.    
    • Tôi có được quyền sử dụng các thủ thuật như: popup, iframe, phần mềm auto click... không?

       Tuyệt đối không! Chúng tôi nghiêm cấm các trường hợp sử dụng các thủ thuật như: popup, gắng iframe, phần mềm auto click, auto surf... nhằm tạo nên các lượt truy cập, tương tác ảo để thu lợi bất chính. Đối với những trường hợp này chúng tôi sẽ toàn quyền khóa tài khoản và hủy toàn bộ doanh thu của tài khoản vi phạm đó.http://www.oni.vn?2930

Saturday, November 1, 2014

HARRISON 18TH NHỮNG NGUYÊN LÝ NỘI KHOA

Quyển sách nội khoa được đọc nhiều nhất. Các sinh viên y khoa khắp thế giới đều đọc quyển sách này, dù là Mỹ, Pháp, Anh hay Singapre, Ấn Độ.  Đây là bộ sách trình bày về các nguyên lý y học nội khoa cơ bản. Ngay từ khi ra đời, từ những năm 50 của thế kỷ XX, bộ sách đã được đông đảo bạn đọc trong giới y khoa đón nhận và hưởng ứng nhiệt liệt, không những chỉ ở Mỹ mà còn ở nhiều nước khác trên thế giới. Sách đã được xuất bản ở nhiều nước, dịch ra nhiều thứ tiếng và tái bản rất nhiều lần. Mỗi lần tái bản sách lại được cập nhật những thông tin mới nhất bởi các chuyên gia đầu ngành đương thời. Mong rằng mọi người sẽ thích quyển sách này!

Link tải gồm 3 phần, sau khi tải xong bạn dùng winrar để giải nén:
P1: http://www.oni.vn/WEccl
P2: http://www.oni.vn/vBsuC
P3: http://www.oni.vn/hekvd

Bác sĩ A Di

SÁCH NGOẠI BỆNH LÝ BỘ Y TẾ ĐÀO TẠO BÁC SĨ ĐA KHOA


Sách ngoại bệnh lý của GS. Phạm Văn Lình chủ biên dành cho bác sĩ đa khoa được Bộ Y Tế công nhận. Viết đầy đủ và phong phú các bệnh lý ngoại khoa. Sách gồm 2 tập:

Link tải:
Tập 1:
Tập 2:

TUYỂN ĐẦU VÀO Y KHOA ANH VĂN CÒN QUAN TRỌNG HƠN VĂN HỌC

Gần đây có ý kiến cho rằng môn văn rất cần cho các những người công tác trong ngành y (như bác sĩ, y tá), vì môn văn "giúp việc nói năng lưu loát, diễn đạt văn bản rõ ràng, đúng ngữ pháp". Xuất phát từ quan điểm đó, có đề nghị rằng các bác sĩ tương lai phải thi môn văn trong kì thi tuyển vào các trường y. Tuy nhiên, tôi nghĩ chúng ta cần phải cẩn thận với đề nghị này, bởi vì chưa có chứng cứ khoa học nào để cho rằng giỏi văn chương giúp viết đúng ngữ pháp hay làm cho người thầy thuốc trở nên nhân văn hơn.

Y học = Khoa học + Nghệ thuật

Y học là một bộ môn khoa học hay nghệ thuật từng là một đề tài gây ra nhiều tranh luận trong giới học giả. Nhiều người ngoài ngành y nghĩ rằng y học là một khoa học, thậm chí khoa học chính xác. Nhưng nhiều người trong ngành y thì có khi nghĩ y học là một nghệ thuật. Trong thực tế, đối tượng của y học là bệnh tật, nhưng "khách hàng" của người thầy thuốc là người bệnh. Một người sống, theo quan điểm y tế, có giá trị hơn hàng ngàn người chết. Nghệ thuật y, do đó, không chỉ chữa bệnh, mà còn khôi phục và duy trì sức khoẻ. Nhìn như thế, y học là khoa học, nhưng thực hành y học thì là một nghệ thuật. Do đó, một quan điểm khác được nhiều người chấp nhận hơn: y học là một ngành khoa học, nhưng cũng là một nghệ thuật.

Nhưng y học là một bộ môn khoa học ứng dụng, chứ không phải là một bộ môn khoa học chính xác, càng không phải là một khoa học xác định (determinism). Bất cứ kết quả xét nghiệm nào cũng có sai sót, và sai sót có khi ngẫu nhiên, nhưng cũng có khi dó yếu tố chủ quan. Trước một kết quả xét nghiệm, bác sĩ A có thể nói là dương tính, nhưng bác sĩ B có thể cho là âm tính. Trong y học, không có những chân lí vĩnh cữu. Một thuật điều trị được xem là chuẩn vàng hôm nay có thể xem là điên rồ trong tương lai. Trong y giới có một câu nói nổi tiếng là "phân nửa những gì là sự thật hôm nay sẽ được chứng minh là sai trong 5 năm tới. Nhưng cái khó là chúng ta không biết cái phân nửa nào sẽ sai." (1). Nói cách khác, y học là một khoa học bất định, và chính yếu tố bất định này dẫn đến khái niệm y học như là một nghệ thuật: nghệ thuật xử lí sự bất định.

Nhưng thực hành y học có thể xem là một nghệ thuật. Tầm quan trọng của tính nghệ thuật trong y học là vì người thầy thuốc phải đối phó với con người, với cơ thể và tinh thần của của người bệnh. Theo quan điểm các học giả y khoa, người thầy thuốc có thể chữa bệnh nhân khỏi đau và đem lại hạnh phúc cho họ, và đó là một hình thức cung cấp dịch vụ mang tính nhân văn. Tính nhân văn còn thể hiện qua cử chỉ và truyền đạt thông tin. Do đó, có quan điểm cho rằng để trở thành một bác sĩ giỏi thì người đó phải trước hết là một nghệ sĩ tốt với đầy đủ kiến thức khoa học.

Y học và văn học: bằng chứng gián tiếp

Thế thì câu hỏi đặt ra là để trở thành bác sĩ giỏi với nhân văn tính thì có cần phải giỏi văn học? Rất khó trả lời câu hỏi này vì không có chứng cứ nào cho thấy sinh viên giỏi môn văn sẽ trở thành bác sĩ tốt trong tương lai. Ở Việt Nam, lại càng chưa có chứng cứ nào về mối tương quan giữa điểm môn văn và điểm học trong trường y. Do đó, tất cả các suy luận về mối liên quan giữa môn văn và phẩm chất của người bác sĩ tương lai đều không có cơ sở khoa học.

Tuy nhiên, có chứng cứ ở nước ngoài cho thấy điểm thi trung học hay điểm kiểm định năng khiếu và thái độ (như UMAT, GPA, kể cả môn văn) không có liên quan cao đến điểm học trong trường y. Ở Úc, người ta làm nghiên cứu trên 339 học sinh trung học thi vào trường y của Đại học Queensland xem điểm UMAT có khả năng tiên lượng thành công của sinh viên theo học trường y. Kết quả cho thấy điểm UMAT có tương quan khiêm tốn đến điểm học GPA trong trường y. Trong thang điểm 0 (hoàn toàn không có liên quan) đến 1 (liên quan tuyệt đối), thì điểm tương quan chỉ 0.15 (2). Kết quả trên cũng khá nhất quán với một phân tích tổng quan các yếu tố có ảnh hưởng đến điểm học trong trường y (3). Theo kết quả của phân tích tổng quan này, điểm trung học chỉ giải thích 23% điểm học trong trường y! Những dữ liệu này hàm ý rằng điểm thi trung học, kể cả điểm môn khoa học, toán, văn, v.v. không phải là yếu tố quyết định sự thành công trong việc theo học ở trường y.

Tuy nhiên, tôi nghĩ học sinh hay sinh viên giỏi văn học sẽ là người "nghệ sĩ y học" theo quan điểm nghệ thuật mà tôi đề cập ở trên. Văn học là bao gồm những sáng tác nghệ thuật (kể cả văn, thơ và kịch) phản ảnh xã hội. Những sáng tác đó làm cho chúng ta suy nghĩ về thân phận chúng ta và xã hội, giúp cho chúng ta thưởng thức cái đẹp của ý tưởng và ngôn ngữ. Nhìn như thế thì văn học liên quan đến việc kiến tạo ra một thế giới khác có thể nằm ngoài cảm nhận thực tế, chứ có liên quan rất ít đến thực hành y học mang tính nhân văn.
Trong thực tế thấy nhiều bác sĩ trở thành nhà văn, nhưng rất ít nhà văn trở thành bác sĩ. Tôi có nhiều bạn trong ngành y sau này là những nhà văn thành danh. Họ là những cây bút đã có tiếng ngay từ thời còn là sinh viên, và sau khi ra trường, đối diện với những nỗi đau của bệnh nhân và những cái chết trong thời chiến, họ trở thành nhà văn và đóng góp cho đời nhiều tác phẩm giá trị. Họ cũng là những bác sĩ được đánh giá là có tài năng và đức độ cao.

Ở Mĩ, một trong những bác sĩ tài hoa trong nghề mà còn viết văn nổi tiếng trên thế giới và cũng là tác gia tâm đắc của tôi là Bs Atul Gawande. Ông là tác giả của tác phẩm Complications rất nổi tiếng, viết về thân phận của bệnh nhân và những cách ứng phó với nỗi đau của bệnh nhân, và những sai sót của bác sĩ (và của chính ông). Cuốn sách nổi tiếng đến độ ông được tạp chí văn học New Yorker mời làm bỉnh bút! Gawande từng tốt nghiệp cử nhân về triết học, kinh tế và chính trị trước khi theo học y khoa. Do đó, chính hoàn cảnh bệnh tật giúp cho người bác sĩ trở thành nhà văn, chứ không phải ngược lại.

Có quan điểm cho rằng giỏi văn và ngữ văn có giúp cho người bác sĩ viết văn hay và diễn giải lưu loát. Tôi hơi nghi ngờ quan điểm này. Trong thực tế, ngay cả người nói lưu loát tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ chưa chắc là người viết văn tốt hay diễn đạt ý tưởng mạch lạc. Trong khi viết bài này, người viết đang bình duyệt một bài báo y khoa trước khi quyết định cho công bố hay không. Bài báo dài 30 trang, nhưng tôi đếm có đến hơn 10 sai sót về chính tả và văn phạm! Đó là chưa tính đến những chỗ mà câu văn chưa được gọn gàng và sáng sủa. Tác giả là một Phó giáo sư y khoa, người Mĩ 100%, với bằng cao nhất trong đại học là MD và PhD. Nhưng đây không phải là trường hợp cá biệt, vì trong thực tế, rất nhiều tác giả sinh ra và lớn lên ở các nước nói tiếng Anh nhưng thiếu khả năng viết và diễn đạt tốt. Muốn viết văn giỏi, tránh sai chính tả, nói chuyện lưu loát, đòi hỏi những kĩ năng ngôn ngữ, chứ không hẳn liên quan đến văn học.

Trong thực tế, nhiều nhà văn sáng tác truyện thì rất hay và nổi tiếng, nhưng khi họ nói thì rề rà, chẳng đâu vào đâu, rất chán. Nhà vật lí thiên tài Albert Einstein nổi tiếng là người viết sai văn phạm và sai ngữ vựng tiếng Anh, nhưng ông diễn đạt ý tưởng thì tuyệt vời. Cựu tổng thống J. F. Kennedy nổi tiếng là người nói hay, một nhà hùng biện, nhưng ít ai biết rằng ông viết sai ngữ vựng tiếng Anh một cách kinh niên! Tôi nghĩ giỏi về kĩ thuật và văn phạm của một ngôn ngữ là điều kiện cần chứ chưa đủ để dẫn đến giỏi về khả năng truyền đạt thông tin, và điều này áp dụng cho tất cả các thành phần xã hội, chứ chẳng riêng gì người thầy thuốc.

Cần tiếng Anh, Hi Lạp và Latin?

Nhưng hãy cứ giả định rằng cách lí giải như bà bộ trưởng là hợp lí, người ta cũng có thể đòi học sinh thi vào trường y phải học tiếng Anh và các tiếng cổ đại như Latin và Hi Lạp. Tại sao? Tại vì phần lớn những thuật ngữ y khoa có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp và Latin. Do đó, học hai ngôn ngữ này rất có ích trong việc đọc và hiểu nguồn gốc các thuật ngữ y khoa. Ngoài ra, có nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng sinh viên y từng học hai ngôn ngữ này có khả năng suy luận logic tốt hơn và điểm học cũng cao hơn các đồng môn không học Latin và Hi Lạp.

Ngoài ra, về tiếng Anh, thì lí do đơn giản là sách giáo khoa y học ngày nay chủ yếu viết bằng tiếng Anh. Bài báo khoa học cũng chủ yếu (có lẽ hơn 95%) viết bằng tiếng Anh. Hội nghị khoa học quốc tế cũng dùng tiếng Anh. Trong y khoa, đi đâu, làm gì cũng "đụng" tiếng Anh. Trong khi đó, các chuyên gia VN hoặc không có thì giờ, hoặc chưa đủ trình độ để viết một bộ sách giáo khoa y học, mà dịch thì chúng ta biết là không thể nào dịch thoát ý và chuyển tải hết nội dung khoa học của sách giáo khoa y học. Kinh nghiệm của tôi cho thấy am hiểu tiếng Anh và giúp cho sinh viên suy nghĩ tốt hơn là tiếng Việt, bởi vì một khái niệm phức tạp có thể mô tả bằng chỉ 1 chữ tiếng Anh, nhưng cũng khái niệm đó có thể cần đến một câu tiếng Việt để mô tả mà ít ai hiểu nổi.

Trong thực tế, dù sinh viên y VN ngày nay đã khá nhiều về tiếng Anh, nhưng vẫn còn chưa ở trình độ có thể đối thoại một cách tự tin như các đồng nghiệp Đông Nam Á. Do đó, theo lí giải của bà bộ trưởng, thì học sinh cần phải thi tiếng Anh trước khi vào trường y. Vì thế, nhu cầu tiếng Anh trong y khoa có khi còn quan trọng hơn nhu cầu môn văn. Mà, quả thật, đã có nghiên cứu hẳn hoi bên Iran cho thấy sinh viên nào giỏi tiếng Anh thì họ thường học giỏi trong các trường y (4).

Nói tóm lại, tôi không thấy có chứng cứ nào để bắt buộc học sinh muốn theo học y khoa phải thi môn văn. Vấn đề quan trọng hơn là cải cách phương pháp tuyển chọn học sinh vào trường y chứ không phải môn văn. Không nên chỉ đơn giản dựa vào điểm thi tuyển mà tuyển sinh viên y, vì điểm này chẳng có ý nghĩa gì trong sự thành công trong học tập. Tôi nghiêng về quan điểm xem ngành y là một ngành sau đại học, và theo đó, sinh viên muốn theo học trường y nên được tuyển từ các sinh viên đã xong chương trình cử nhân.

Đọc thêm:

(1) Lakshmipati G. Care of the medical outpatient, 2003. trang vii–vii. Nama publication, Coimbatore, Tamilnadu.

(2) Wilkinson D, et al. Predictive validity of the Undergraduate Medicine and Health Sciences Admission Test for medical students’ academic performance. Medical Journal of Australia 2011; 194 (7): 341-344.

(3) Ferguson E, et al. Factors associated with success in medical school: systematic review of the literature. BMJ. Apr 20, 2002; 324.

(4) Sadeghi B, et al. English Language Proficiency as a Predictor of Academic Achievement among Medical Students in Iran. Theory and Practice in Language Studies, Vol. 3, No. 12, pp. 2315-2321.

GS. Nguyễn Văn Tuấn