Saturday, October 11, 2014

NHỮNG ĐIỀU SINH VIÊN Y KHOA NĂM NHẤT PHẢI BIẾT

VÀI LỜI GIỚI THIỆU VỀ BS NGUYỄN HỮU PHIẾM
Bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm là một Tiến sĩ Y khoa tốt nghiệp tại Pháp, không rõ sinh năm nào, chỉ biết ngày 1-7- 1949 được bổ nhiệm làm Bộ Trưởng Y Tế thời chính phủ Bảo Đại. Ông hoạt động trong nhiều lĩnh vực Giáo dục Chính trị, Văn Học, có nhiều bài viết trên các báo thời Pháp thuộc, quen biết với nhiều người trong các giới chính quyền cũng như các văn nhân, nghệ sĩ. Ông có mở phòng mạch ở Đà Lạt, rất được nhân dân thương mến vì tận tụy với bệnh nhân, nhất là bệnh nhân nghèo. Nơi đây ông là bạn chí cốt với nhà văn đứng đầu nhóm Tụ Lực Văn Đoàn là Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Khi Nhất Linh tự vẫn do chống chính quyền Diệm ông tận tình theo sát tới khi Nhất Linh mất. Vì nổi tiếng liêm khiết và hết lòng với bệnh nhân nên ở Đại Học Y khoa Huế ông được cử làm giáo sư phụ trách giảng dạy môn Nghĩa Vụ Luận. Năm 1968 trường Đại Học Y Khoa Saigon mời ông diễn thuyết về đạo đức y khoa tại trường này. Tài liệu hôm nay chính là bản văn ông diễn thuyết ngày đó. trích trong cuốn Lời khuyên sinh viên Y Khoa do ông chủ biên và do trung tâm học liệu bộ Giáo Dục xuất bản năm 1972. Tôi xin chép lại cho các bạn xem. Những ý tưởng trong bài tôi đã đọc trên 30 năm hôm nay xem lại thấy như mới, vô cùng cảm động. Các bạn hãy giữ nó làm chỉ nam giống như tôi đã giữ nó trên 30 năm nay. Đối với những người đồng cảm thì những lời trong bài “ngân lên vang vọng hòa nhịp với con tim người xem, gây ra một cảm giác không gì sánh được”.
Khác với các bài giáo điều BS Phiếm trình bày bài nói chuyện rất chân tình, thực tế. Tác giả nhấn mạnh đến khía cạnh TRÁCH NHIỆM chính điều này đã làm nghề y khác hẳn những nghề khác, vinh nhục cũng từ đó mà ra. Nhiều người từ góc độ của nghề khác phê phán so bì với ngành y chúng ta, họ quên rằng bản chất của nghề y hoàn toàn khác hẳn các nghề khác. Mong rằng các bạn khi đọc xong lời khuyên này thì hãy còn chút gì đấy đọng lại trong tâm tư, đừng để gió cuốn đi.
Vì bài khá dài nên tôi xin trích đăng làm vài kỳ để các bạn “tiêu hóa” dần dần, nhân tiện chú thích một số danh từ hay ý niệm hơi xưa cho rõ nghĩa.

MẤY LỜI KHUYÊN SINH VIÊN Y KHOA

 BS Nguyễn Hữu Phiếm
(Buổi nói chuyện do trường Đại Học Y khoa Huế tổ chức ngày 29-6-1968 Tại Trung Tâm Y Khoa Đại Học SAIGON)
Các bạn sinh viên thân mến.
Nghề thuốc mà các bạn đã chọn là một nghề cao đẹp nhất, và chính để chứng tỏ điều đó nên mới có buổi nói chuyện hôm nay một buổi nói chuyện thân mật giữa một người thày thuốc-đã hành nghề trên 30 năm-với những người thày thuốc tương lai, giữa một người anh cả với các em sắp sửa vào nghề, bởi dù muốn dù không các bạn và tôi, chúng ta từ bao nhiêu thế hệ nay đã được coi như thuộc về một gia đình-đại gia đình y giới- và riêng về điểm đó, ngay từ bây giờ, các bạn đã thấy nghề thuốc không giống như các nghề tự do khác.
Các bạn thân mến.
Các bạn đã chọn nghề thuốc với tất cả một tấm lòng nhiệt hứng, hăng say của tuổi thanh xuân, nhưng thử hỏi đã mấy ai chịu tìm hiểu những lý do thúc đẩy mình vào con đường ấy?
Có một số bạn trẻ chọn nghề này, coi như một lẽ đương nhiên để nối nghiệp cha anh đã từng là thầy thuốc.
Có một số, vì ham thích và cũng như mọi ham thích, khó lòng mà giải thích được tại sao. có thể vì hồi nhỏ ốm đau, đã được người thày thuốc tận tâm săn sóc, hoặc được mục kích những cảnh thập tử nhất sinh mà được bàn tay người bác sĩ cứu sống.
Đối với một số nữa-rất hiếm- có lẽ làm nghề thuốc vì đó là mộtthiên chức (une vocation): ngoài mảnh bằng bác sĩ để hành nghề ra, còn muốn làm một cái gì khác nữa, như trở thành một nhà khảo cứu, một vị bác học hoặc một giáo sư đại học.
Thiên chức theo định nghĩa, là một tiếng nói tự đáy lòng phát ra, nó thúc giục ta làm một việc nào đó, Giáo sư Maranon bảo là: ”một loại đam mê có tính chất của tình thương, kẻ nào có một thiên chức coi vật mình yêu như một mụa đích độc hữu, không thể chia xẻ được. Họ phụng sự mối tình yêu đó mà tuyệt đối không vụ lợi” và vẫn theo lời Maranon “sở dĩ nghề thuốc suy đồi vì thanh niên, khi chọn nghề đó không phải vì có thiên chức thật sự, mà chỉ vì hy vọng có một địa vị cao sang”.
Người ta đã điều tra một số sinh viên y khoa để biết tại sao họ chọn nghề thuốc: trong số 100 sinh viên có tới 70 người trả lời: Không biết. Còn lại 30 có người bảo: học thuốc để tìm những thỏa mản tri thức, hoặc vì có một niềm tin hoặc vì nghề đó đã danh giá lại kiếm được nhiều tiền
Tôi biết một số thanh niên sau khi đậu xong Tú Tàilưỡng lự không biết chọn ngành nào ở Đại Học bèn chọn đại Y khoa vì nghe lời cha mẹ hoặc họ hàng thân thuộc-những người này không phải là thày thuốc, không hiểu nghề thuốc là gì mà chỉ nhìn thấy một khía cạnh sai lầm là: nhà lầuxe hơi tiền bạc…. Những người đó xem nghề thuốc như nghề đi buôn và cho rằng học hành vất vả mới giật được mảnh bằng bác sĩ thì dĩ nhiên phải được đền bù xứng đáng, phải được thụ hưởng. Còn bổn phận của mình những gì, trách nhiệm ra sao họ đâu có biết hoặc nghĩ tới?Đối với hạng người này tôi xin nhắc lại ở đây câu nói của P. Le Gendre”
“Kẻ nào chỉ làm nghề thuốc với hi vọng làm giàu, kẻ đó sẽ thất vọng, vì nghề thuốc chỉ được trọng vọng khi nào chúng ta có một tinh thần vị tha, hỉ xả. ”
Các bạn thân mến
Khi các bạn chọn nghề này, dĩ nhiên là để sinh sống, để nuôi gia đình, để hưởng một đời sống sung túc. tuy nhiên chúng ta không được quan niệm nghề thuốc như một nghề để làm tiền, vì nếu các bạn hành nghề đúng đắn ít khi các bạn có thể giàu được.
Ngoài vấn đề mưu sinh ra tất còn có một lý do nào khác nữa nó thúc đẩy các bạn lựa chọn cái nghề đó. Tôi không dám dùng những danh từ quá to tát như: “cứu nhân độ thế” mà chỉ nói; sở dĩ làm nghề thuốc là để mong xoa dịu được phần nào những đau khổ của đồng bào, muốn giúp ích cụ thể cho xã hội.
Có bạn học thuốc, như trên vừa nói, để thỏa mãn tri thức, thỏa mãn sự tò mò, những biết những kỳ quan của bộ máy con người ta, muốn tháo nó ra từng mảnh để xem bên trong có những gì, tại sao nó chạy, hoặc muốn tìm cho ra hạt bụi nào đó đã làm cho bộ máy kia tắc, rồi ngưng chạy…
Đối với sinh viên y khoa, còn gì vui sướng và hồi hộp bằng lần đầu tiên ở trong bệnh viện, chỉ nhờ có nghe và gõ lên ngực bệnh nhân mà đã đoán được rằng trong màng phổi có nước và khi lấy chiếc kim chọc vào phổi thì quả nhiên thấy có nước thật.
Không những học để biết mà còn để phụng sự nữa. Còn niềm vui gì bằng sau một thời gian vật lộn với tử thần người thầy thuốc đã đẩy lui được bệnh và trao trả cho bà me đứa con thân yêu của bà.
Người ta muốn phê bình sao thì phê bình, một người thày thuốc sau một ngày làm lụng vất vả, bảo họ “hái ra tiền” chẳng hạn, nhưng tôi dám chắc ngoài việc chữa bệnh ra, còn phải có những động cơ nào khác nó thúc đẩy họ chứ không riêng gì tiền bạc. Họ không thể không băn khăn lo lắng mỗi khi rời một căn nhà, trong đó có một tính mạng đang bị đe dọa, hoặc đó là tính mạng của một người cha, cột trụ của cả một gia đình, hoặc tính mạng của một người mẹ với đàn con thơ dại đang cần có người săn sócdạy dỗ, hoặc tính mạng của một đứa hài nhi, chỉ có quyền sống chứ không được chết yểu…
Mối băn khăn đó đôi khi còn ám ảnh người thày thuốc trong bửa ăn giấc ngủ của họ.
Người thày thuốc không thể không có những suy tư sau khi ngồi bên giường bệnh kiên nhẫn nghe lời kể lể tâm sự của thân chủ mình, rồi cố tìm một lời nói dịu dàng để khuyên nhủ, ngõ hầu xoa dịu được phần nào những nỗi khổ đau về tinh thần, những khắc khoải hoặc dằn vặt của một lương tâm đang bị cắn rứt….
Người thày thuốc không những chỉ đem lại cho ta sức khỏe, họ giúp ta sống đã đành nhưng nhiều khi họ giúp ta nhắm mắt cho yên nữa.
Chữa khỏi đã vậy, nhưng còn những khi thất bại ?
Đã mấy ai thấu hiểu được nỗi khổ của người thày thuốc, dù ham tiền mấy đi nữa, sau khi thâu canh ngồi bên một sản phụ, những mong cứu sống được cả mẹ lẫn con, hoặc ít nữa một trong hai người, nhưng rút cuộc không cứu nỗi ai hết. Và trong khi người thày thuốc ấy, khác nào một kẻ bại trận, rửa tay-hai bàn tay đẩm máu và rung lẩy bẩy- thu xếp đồ dùng cho vào cặp rồi lủi thủi ra về, mặt mũi phờ phạ, đầu chóang mắt hoa, có những con mắt ngấn lệ, đầy đau thương, có khi đầy oán hận, nhìn theo và biết đâu không lên án họ. ? Ôi, VINH NHỤC của nghề thuốc!
Người ta muốn phê bình người thày thuốc ra sao tùy ý, nhưng tôi dám chắc, trong khi hành nghề, họ không thể không có một niềm tin, một tia hi vọng, một ngọn lửa thiêng nào đó trong lòng. Nói tóm lại, thế nào họ cũng phải có một nhiệt hứng khiến họ cảm thấy sung sướng khi tìm ra căn bệnh. Một niềm vui khi phụng sự và thành công.
Duhamel đã nói”Không có nghề nào cao đẹp và buồn bằng nghề thuốc, một nghề đói hỏi nhiều bổn phận, nhiều trách nhiệm tinh thần, nhưng chính trách nhiệm đó, nhất là trách nhiệm tinh thần, nó làm cho nghề chúng ta cao đẹp. ”
Những trách nhiệm của người thày thuốc ở vào thời đại này rất nặng nề, vì không nói tất các bạn cũng rõ là chúng ta hiện đang sống trong một kỷ nguyên thật là huyền ảo, khoa học tiến quá mau, ngoài sức tưởng tượng của con người, ” đã làm cho chúng ta trở thành những bậc THẦN THÁNH trước khi chúng ta xứng đáng làm người”(Jean Rostand)
Thật thế: chỉ trong vòng ba bốn chục, y học đã tiến triển và khác hẳn bốn ngàn năm trước và nếu ngoảnh lại nhìn chặng đường đã qua, chúng ta không thể không giật mình kinh ngạc.
Giáo sư Jean Bernard đã viết không phải là quá đáng:
‘”Một người thày thuốc ở thời tiền chiến, vắng mặt sau một thời gian 30 năm và nay trở vềsẽ bở ngở không khác gì một bạn đồng nghiệp của ông sống dưới thời Hippocrate nay tái sinh trước ngày thế chiến thứ hai
Tuy nhiên chúng ta những kẻ hậu sinh, không được quên ơn các bậc tiền bối đã có công lớn với y học, hoặc ít ra cũng nhớ đến tên tuổi những vị đó, như Pasteur, Claude Bernard, Lister, Yersin, Fleming …vv.

Nói về ngoại khoa cách đây trên 40 năm một danh y về khoa giải phẫu, giáo sư J. L Faure trong bài diễn văn khai mạc một cuộc hội nghị quốc tế đã nói:
Ngày nay khoa giải phẫu đã lên tới chỗ tuyệt đỉnh rồi, khó lòng mà tiến hơn nữa
Tuy nhiên trên lãnh vực y khoa, ai dám tự hào mình là một nhà tiên tri, và ngày nay -1968- chúng ta có thể lập lại câu nói và biết đâu trong vài ba năm nhận xét của chúng ta lại không đúng nữa.
Các bạn tất đã biết nhờ có thuốc mê (tìm ra năm 1816 ở Hoa Kỳ) mà người ta có thể giải phẫu với những điều kiện mới. Nhất là sau cuộc cách mạng do Pasteur khởi xướng, cho biết nguyên nhân của phần nhiều bệnh là vi trùng, rồi nhờ có phương pháp sát trùng (antiseptie) của Lister, nhất là phương pháp phòng hủ (asepsie) của Terrier, số người chết đi vì giải phẫu giảm đi rất nhiều. Đồng thời các nhà giải phẫu táo bạo hơn, dám đi sâu vào trong cơ thể, nào mổ ruột, mổ dạ con, nào giải phẫu xương, khớp xương, …vvv
Mặc dầu khoa giải phẫu tiến bộ rất mau, mặc dầu kỹ thuật giải phẫu đã được hoàn bị, vẫn còn có người chết vì giải phẫu do những xáo trộn trong cơ thể. Quan trọng hơn hết là xáo trộn sinh lý (desordres biologiques) gây ra một loại bệnh hậu giải phẫu( maladie post-operatoire) Bệnh này được nghiên cứu kỹ càng để dần dà đưa tới phương pháp hồi sinh (reanimation) một phương pháp ngày nay rất thông dụng, không những ở ngoại khoa mà còn ở nội khoa nữa.
Một trong những kỹ thuật kỳ lạ nhất của khoa gây mê là đông miên nhân tạo (hibernation artificielle) và nhờ phương pháp này, người ta có thể giải phẫu tim được.
Một đàng, nhờ có phương pháp hồi sinh và thuốc mê, đàng khác nhờ có thuốc trụ sinh-mỗi ngày một nhiều-nhờ có thuốc ngăn đông huyết (anticoagulants) và sau hết nhờ tiếp máu, có khi thay cả máu nữa, mà khoa giải phẫu đã đi vào những con đường mà từ xưa tới nay không ai dám nghĩ tới như là mổ phổi để rồi cắt đi, mổ óc, tủy, xương sống, giao cảm thần kinh (sympathique) hoặc ghép mạch máu, ghép xương, ghép mắt, ghép thận …vv. Mới đây các bạn còn nghe nói về những vụ thay tim làm chấn động dư luận thế giới và khiến mọi người phải kinh ngạc và thán phục vô cùng.
Bên cạnh những thành công rực rở đó nội khoa cũng phát triển rất nhanh.
Nhờ có thuốc trụ sinh, phát minh vào cuối thế chiến thứ hai, nhiều bệnh truyền nhiễm như thương hàn, giang mai…. đã bị đẩy lui.
Nhờ có Penicilllin-do Fleming tìm ra- nhiều loại vi trùng như: pneumocoque, streptocoque, méningocoque. đã bị tiêu diệt và nhiều bệnh phổi, bệnh đau màng óc cấp tính, bệnh lậu, có thể trị được, cũng như bệnh đau tim do vi trùng streptocoque viridans-còn gọi là bệnh Osler- mà xưa kia y học đã phải bó tay.
Còn nhiều trụ sinh khác cũng được khám phá và đáng kể nhất là streptomycine-do Waksman tìm ra năm 1943- rất công hiệu để trị bệnh lao, một trong tứ chứng nan y của ta. Lần đầu tiên bệnh nguy hiểm này đã bị đánh bại.
Ngoài trụ sinh ra, người ta còn tìm ra được nhiều loại thuốc hóa học nữa, trong đó phải kể Isoniazide rất thông dụng từ năm 1952 để chữa bệnh lao, song song với streptomycine và nhiều thuốc khác như Chlopromazine (largactyl) để trị các bệnh thần kinh. Từ ngày có thuốc này và những thuốc mới như resepine, tại các dưỡng đường điều trị người điên, loạn óc, ta không còn chứng kiến những cảnh huyên náo nữa, và nhất là bệnh nhân không còn bị đối xử như những con thú vật, mỗi khi lên cơn điên, bị nhốt trong chuồng sắt, chân tay bị trói chặt, như cách đây trên 30 năm, hồi tôi còn là sinh viên.
Chúng ta cũng thể quên được những khám phá quan trọng trong ngành học về những bệnh do siêu vi trùng gây ra, và nên biết rằng ngày nay, nhờ có thuốc chích hoặc uống thuốc phòng ngừa mà nhiều bệnh như bệnh tê liệt (poliomyélite) có thể tránh được, cũng như bệnh cúm(grippe) bệnh sởi (rougeole). . vv
Những bệnh truyền nhiễm ghê gớm như bệnh tả (choléra) bệnh dịch hạch (pest) bệnh cùi (hủi) bệnh hoàng đản (fièvre jaune) không còn là mối lo cho nhân loại như hồi xưa nữa. Và những bệnh như bệnh ngủ (maladie du sommeil) ở Phi châu, bệnh sốt rét cơn (paludisme) cũng đã bị đẩy lui. Nhờ có bột DDT mà hàng chục triệu người đã không mắc bệnh sốt rét cơn.


Các bạn thân mến.
Tôi không thể kê khai hết ở đây tất cả những phát minh khác của y học trong mấy năm vừa rồi, như: sinh tố, kích thích tố( đặc biệt là cortisone, A. C. T. H ) hoặc nói đến những phương pháp tối tân để định bệnh bằng quang tuyến, bằng isotope. . vv mà chỉ nhấn mạnh tới những khám phá quan trọng trên lãnh vực trị liệu thôi.
Đời sống trung bình của con người cách đây hai thế kỷ là 35 năm, nay lên tới 70, và có lẽ chỉ trong vài chục năm nữa số người thọ 100 tuổi là thường.
Nhưng chúng ta đừng quá lạc quan và yên trí rằng bất cứ bệnh nào cũng có thể trị được dù y học tiến bộ mấy đi nữa, hiện nay vẫn còn có một số bệnh mà người ta vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân, như bệnh tê thấp, bệnh chai động mạch(arterio-sclerose), bệnh ung thư máu (leucemie)…Còn đối với những bệnh ở thần kinh hệ do siêu vi trùng gây ra (virus neurotrope) chúng ta vẫn còn …. . bất lực.
Y học hiện nay vẫn chưa có thuốc để cho ta khỏi già. Không những đừng quá lạc quan mà còn phải biết những nguy hiểm và những bệnh do chính thuốc gây ra (maladies thérapeutiques). Giáo sư Michel Conte đã nói:
Hiện nay chúng ta đang đứng trước một bi kịch mà chúng ta không phải là khán giả. Chúng ta bị lôi cuốn vào trong một cơn gió lốc, và chúng ta phải chữa bệnh, tức là phải lực chọn những thứ thuốc mới, và cái đó không phải là chuyện dễ. Chưa bao giờ quyền lực của người thày thuốc lại mạnh đến thế, nhưng chưa bao giờ họ lại cảm thấy mình lúng túng đến thế.
Trụ sinh khi dùng bừa bãi, có thể tạo ra nhiều bệnh nặng do vi trùng staphylocoque gây ra, hoặc bệnh nấm(mycose) hoặc làm cho máu biến đổi.
Một vài loại sulfamide có thể gây ra bệnh ngoài da chết người được. Aspirine dùng nhiều có thể làm loét bao tử và xuất huyết, dùng corisone có thể làm thủng bao tử, gây kinh phong, hoặc làm cho bệnh lao cũ tái phát. Butazolidine có thể làm băng huyết được. Nhiều tai nạn lưu thông đã xảy chỉ tại dùng thuốc an thần, những thuốc này làm cho phản ứng chậm lại.
Người ta cũng nói nhiều về trường hợp các lực sĩ chết vì dùng kích thích tố trong các cuộc thi điền kinh.
Vẫn hay rằng những thuốc nói trên, trước khi đem ra dúng đã được thí nghiệm cho súc vật (Florey và Chain đã chích Penicilllin cho chuột và thấy không độc nên mới chích cho người, cũng như các loại thuốc an thần) nhưng làm sao biết chắc được là khi áp dụng cho người sẽ không nguy hiểm sẽ không nguy hiểm?Làm sao có thể tiên liệu được những phản ứng chậm, còn những thứ thuốc, thuộc loại thuốc hóa học, mỗi ngày một nhiều, càng công hiệu lại càng nguy hiểm)
Người ta đã từng thí nghiệm thuốc thalidomide trước khi đưa ra thị trường nhưng có ai ngờ đâu rằng dược phẩm đó lại làm cho các sản phụ sinh ra quái thai. ?
Các bạn thân mến.
Tôi không có ý nêu ra đây những nguy hiểm của thuốc để các bạn sợ và đừng dùng, mà chỉ mong sao các bạn thận trọng mỗi khi các bạn cho toa, nhất là lưu ý các bạn đến những phản ứng bất ngờ có thể xảy ra với bất cứ loại thuốc nào. bởi vậy các bạn cần hỏi cặn kẻ bệnh nhân trước khi biên toa cho họ.
Tôi đã nói với các bạn không có nghề nào có nhiều trách nhiệm bằng nghề thuốc, nhưng cũng không có nghề nào cao quý bằng. Cứu sống một người bị thương nặng nhờ giải phẫu kịp thời và đúng kỹ thuật, làm cho một bệnh nhân đang đau quằn quại chỉ trong phút chốc hết đau ngay, hoặc trả lại cho một bà mẹ đứ con yêu quý mà bà ta yên trí khó lòng qua khỏi, tất cả những cái đó, đối với một người không ở trong nghề, thật là phi thường và được coi như phép lạ.
Trách nhiệm của người thày thuốc nặng nề ngay từ khi định bệnh cho đến lúc kê toa, hoặc giải phẫu, bởi tính mạng của một người nằm trong tay họ.
Trách nhiệm đó làm cho người thày thuốc ngày đêm lo lắng đến quên ănmất ngủ. Tôi thành thật mong cho các bạn được sống những giờ phút lo âu hồi hộp đó vì chính nhờ thế, rồi qua khỏi mới cảm thấy được tất cả cái cao đẹp của nghề thuốc.
Trousseau, một vị danh sư của Pháp, đã từng khuyên các sinh viên y khoa:
‘”Các bạn có bổn phận làm vẻ vang cho nghề của các bạn, cũng như nhờ nghề đó mà các bạn được vẻ vang, một nghề đòi hỏi nhiều hi sinh, một nghề trong đó ngày và đêm của các bạn sẽ là ngày và đêm của người ốm”
Các bạn nên yên trí rằng các bạn gieo tận tâm mà sẽ chỉ gặt bội bạc. Các bạn sẽ phải gạt bỏ hết những thú vui đầm ấm của gia đình và thì giờ nghỉ ngơi sau một thời gian làm lụng vất vả.
Các bạn không được sợ thối tha bẩn thỉu hoặc nguy hiểm, các bạn không được lùi bước trước cái chết khi cái chết đó xảy ra giữa những lúc nguy hiểm của nghề chúng ta, bởi chết như thế sẽ làm cho ai nấy khi nhắc đến tên bạn, phải tỏ lòng kính mến. ”
Như tôi vừa nói, y học ngày nay tiến rất nhanh, và muốn trở thành một bác sĩ lành nghề, các bạn khi còn là sinh viên, phải siêng năng học tập, từ lý thuyết đến thực hành. Định bệnh chậm trễ hoặc sai lầm khi cho thuốc (cho quá hoặc không đủ liều) đều là những lỗi không thể tha thứ được. Bởi vậy thiết tưởng trong LỜI TUYÊN THỆ của Hippocrate cần ghi thêm câu này: Tôi xin thề suốt đời học hỏi Trong thời buổi này, bổn phận đầu tiên của người thày thuốc là phải học, phải biết, và phải biết cho đến nơi đến chốn, chứ không được biết lờ mờ.
Không nói tất các bạn cũng rõ là những kiến thức của chúng ta ở trên mọi lãnh vực, chứ không riêng gì ở y khoa, chỉ trong vài ba năm, có khi vài tháng, đã trở thành” cũ rích”. vì vậy chúng ta cần phải trau dồi học hỏi luôn luôn, suốt đời chúng ta vẫn phải là sinh viên đầy nhiệt hứng. Bận rộn mấy các bạn cũng cố dành thì giờ để đọc sách, báo y học, ngõ hầu theo dõi những tiến triển của y khoa, và nếu các bạn có thể tìm tòi, khảo cứu được thì càng hay. Thật là một tai họa cho người ốm nếu chẳng may gặp phải ông thày thuốc, dù tử tế dù tận tâm, nhưng” gà mờ “khiến tiền mất mà tật vẫn mang.
Người ta thường nói”có học mà không có lương tâm là sự đồi bại của linh hồn” (science sans conscience n’est que ruine de l’âme) nhưng có lương tâm mà không có học, nhất là khi làm nghề thuốc, cũng bằng thừa, nguy hiểm nữa là khác. “Tài năng và lương tâm chức nghiệp đều có liên hệ mật thiết với nhau, và giá trị nghề nghiệp phải đi đôi với giá trị đạo đức. Dốt nát và lừa bịp đều như nhau cả” (Gosset)
Ngoài việc trau dồi kiến thức y học, người thày thuốc còn phải có một vài đức tính sau đây:
a)Có óc nhận xét, nếu không sẽ bỏ qua những triệu chứng cần thiết để định bệnh.
b) Có lương tri, tức óc phê bình, biết phán đoán, không quá tin ở những kỹ thuật hoặc thuốc mới nếu xét thấy những kỹ thuật và thuốc này trái ngược với bệnh lý (phòng thí nghiệm vẫn có thể nhầm được). Đừng ham mới chuộng lạ nếu thuốc kê cho bệnh nhân dùng chưa được các danh sư hoặc các bác sĩ đứng đắn xác nhận là công hiệu và không nguy hiểm. Có nhiều thứ thuốc hôm nay được ca tụng như thần dược mà chỉ trong một thời gian ngắn đã bị bỏ rơi (trường hợp vàng để trị bệnh lao, thạch tín (arsenic) để chữa giang mai. . ) Bởi vậy trước khi cho toa các bạn phải thận trọng và luôn luôn nhớ tới lời châm ngôn cổ: Primum non nocere (trước hết đừng làm hại).
c) Có kinh nghiệm:
Muốn có kinh nghiệm dĩ nhiên phải hành nghề lâu năm. Tuy nhiên đối với nghề thuốc cũng như với nhiều nghề khác, các bạn đứng tưởng rằng cứ nhiều tuổi nghề mà có nhiều kinh nghiệm, nhiều từng trải, vì có “những cái mà mình cho là kinh nghiệm, kỳ thực là những sai lầm chồng chất lên nhau” (Sergent)
Một sinh viên y khoa năm thứ nhất, lần đầu tiên gặp một người mắc bệnh thương hàn lần sau gặp một người sốt liên miên, nom có vẻ mệt mỏi, chàng ta không do dự gì cả, bảo người đó bị bệnh thương hàn. Trái lại một sinh viên năm thứ năm, hoặc một sinh viên nội trú hoặc một vị giảng sư dù đã từng chữa hàng trăm người mắc bệnh đó rồi, bao giờ cũng dè dặt, không vội vả. Những người ít học lại càng hay tự phụ, còn những người học rộng tài cao lại càng khiêm tốn”khác nào những bông lúa lép bao giờ cũng ngạo nghễ vươn đầu lên trời, trong khi những bông lúa vàng nặng trĩu hạt thì nằm rạp xuống đất" (Leonard de Vinci )
Ngoài kiến thức về y học ra người thày thuốc còn phải có những đức tính tinh thần, nhất là phải có tình thương.
Làm thày thuốc dù giỏi, dù có lương tâm mà thiếu tình thương thì chỉ được coi như mới làm có một nửa phận sự thôi, và nhất định không thể nào yêu nghề được. Từ mấy ngàn năm nay Hippocrate đã nhấn mạnh tới điểm quan trọng này rồi.
Bạn săn sóc người ốm, sau khi đã thăm bệnh, cho toa, dặn dò cặn kẻ cách dùng thuốc như thế nào và cho biết bệnh tình nặng nhẹ ra sao, bao giời khỏi, rồi bạn ra về, như vậy đã đủ chưa? Tôi thấy là chưa đủ. Vì ngoài cái đau đớn về thể xác, bệnh nhân nào cũng mong được vỗ về, an ủi, bệnh nhân nào dù sang hèn, cũng muốn rằng người thày thuốc kiêm cả một nhà tiên tri nữa, biết hiện tại lẫn tương lai, chữa được mọi bệnh ngay cả tâm bệnh.
Phải chính bản thân mình đã từng bị đau ốm mới biết thế nào là một người thày thuốc. Trong khi mong đợi thì xiết bao lo ngại, băn khoăn, rồi khi thấy mặt thì mừng rỡ, cảm thấy vững tâm ngay. Mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của người thày thuốc đều quan trọng đối với người bệnh, và người này chỉ muốn cho ông thày lúc nào cũng ở bên cạnh mình, không rời mình ra, bất kể đêm khuya, bất kể họ mệt nhọc. Nào chỉ có thế thôi !Lại còn những lời trách móc nếu mời mà đến chậm, hoặc đi vắng vì hôm đó nhằm ngày chủ nhật hay ngày lễ.
Chính nhờ có sự vững tâm nói trên mà nhiều khi bệnh mau khỏi. Bởi lẽ đó, y học muốn trở thành một nghề cao quý, cần phải là một nền y học nhân bản, nghĩa là hiểu thấu những gì thuộc về con người, con người toàn diện, con người trong quá khứ và hiện tại. Và nhất là phải tôn trọng con người.
Nhân bản là cảm thấy trong lòng con người ta trải qua bao thế kỷ, cái gì đó vẫn bất di, bất dịch, con người thì hoàn toàn và sống trong một thế giới thích hợp với họ, con người biết rung động trước thiên nhiên, biết rung động khi nghe một bản nhạc, khi đọc một cuốn sách khi suy ngẫm về những sự huyền bí của tạo vật. Nhân bản tức là biết cảm, biết yêu, biết thương xót” (Maranon)
Một người ốm, không phải chỉ có phần xác, với tim, gan, phổi, thận mà thôi, lại còn có cái mà từ ngàn xưa Platon gọi là phần hồn nữa.
Một bệnh nhân thuộc về bất cứ thành phần nào trong xã hội không phải là một con số, hay là một lá phiếu như ta thường quan niệm ở bệnh viện. Họ không phải là một kẻ vô danh, mà ngược lại, là một người như chúng ta, một người có tên, có tuổi, có nghề nghiệp, địa chỉ, có gia đình, có những hoài bão, ước mơ, cảm xúc.
Các bạn nên biết rằng một bệnh nhân khi nằm trên giường bệnh, không bao giờ có những phản ứng tâm lý như một người bình thường, và buổi đầu thế nào họ cũng có những xúc động lo âu.
Người thày thuốc không phải là một người thợ máy sữa chữa cơ thể như ta sửa một cái máy hư”Đó là một con người cúi xuống một con người khác, mong giúp đở họ, có gì cho nấy, đem lại cho họ một chút khoa học nhưng rõ nhiều tình thương”(Ignacio chavez).
Muốn rằng thày thuốc là một con người máy và người ốm là một con số tức là không hiểu một tí gì về khoa tâm lý cả. Không nói tất các bạn cũng rõ là con người ta phức tạp vô cùng, đầy mâu thuẩn, có lúc sống với những bản năng cực kỳ hèn thấp, nhưng đôi khi lại có những hành động thật là cao thượng, siêu nhân. Và có lẽ bởi nhìn thấy rõ các nhược điểm đó nên người thày thuốc, mỗi khi gặp một bệnh nhân khó tính, hoặc đối xử với mình tệ bạc mà vẫn sẳn lòng tha thứ.
Không có một bộ máy nào dù cho tinh xảo mấy đi nữa, có thể ủy lạo người ốm với những lời dịu dàng trìu mến được, và giữa người thày thuốc và con bệnh, bao giờ cũng có một sự cảm thông, một mối dây liên lạc mật thiết “một cuộc đối thoại kỳ lạ”(une colloque singulier) như Duhamel đã nói, một bên thì ký thác những gì bí ẩn trong cõi lòng của mình, còn một bên thì cho mà không hề đòi hỏi. Hiểu như vậy các bạn sẽ cảm thấy sung sướng vô cùng, và nếu cái học của các bạn không phải là cái học nhân bản thì thật là vô ích và đáng tiếc lắm.
Tóm lại đối với người thày thuốc, xứng đáng với danh từ đó “không có bệnh mà chỉ có con bệnh thôi” (Mondor).
 *************
Ta thường nghe người ta phê bình ông thày thuốc này tốt, ông kia tử tế. Tốt hay tử tế không phải vì mát tay, mà vì ngoài công việc chữa bệnh ra, người thày thuốc còn hỏi han đến gia cảnh của thân chủ mình, đến sự học hành của con cái họ, có khi khuyên răn, có khi giúp đở, nghĩa là làm tất cả những gì có thể làm cho bệnh nhân và gia đình họ được hài lòng “ chỉ có người tốt mới có thể thành danh y được (Nothnagel) vì nhiều khi chính nhờ tấm lòng tốt của người thày thuốc mà bệnh nhân chóng bình phục.
Ngoài tình thương và tấm lòng tốt ra người thày thuốc còn phải tế nhị đối với bệnh nhân nhất là ở bệnh viện.
Các bạn đừng quên rằng người ốm bao giờ cũng có nhiều mặc cảm (mặc cảm tự ti) hay lo lắng và thường để ý tới cử chỉ và lời nói của các bạn.
Các bạn đừng khinh người nghèo khó và nên nhớ rằng trước bệnh tật và cái chết ai ai cũng như nhau cả.
Ambroise Pare người đã được coi như cha đẻ của khoa giải phẫu, nguyên là ngự y cho vua Chareles IX một hôm nhà vua đau cho vời ông lại và bảo: “Trẩm mong khanh săn sóc Trẫm chu đáo hơn những người khác” Ambroise Pare đáp”Tâu bệ hạ hạ thần rất tiếc vì kẻ hạ thần chữa thân chủ của hạ thần như chữa các bậc đế vương
Ngay đến những sa đọa về tinh thần của bệnh nhân các bạn cũng phải tôn trọng.
Các bạn sinh viên thân mến,
Như trên tôi vừa nói, trong nghề thuốc của chúng ta có nhiều buồn, nhiều đau khổ hơn vui, nhất là nhiều nhục hơn vinh. Có những người mà ta tận tình săn sóc lại là những kẻ bội nghĩa vong ân, và trái lại, có những người mà tự xét ta chẳng làm được gì gọi là đáng kể thì suốt đời họ lại coi ta như bậc ân nhân.

 *********
Nói tới những bổn phận của các bạn, tôi không thể không đề cập đến vấn đề bí mật nghề nghiệp (secret professionnel)
Tuyệt đối người thày thuốc không được tiết lộ cho ai biết căn bệnh của thân chủ mình. Trong bệnh viện khi các bạn còn là sinh viên, các bạn không được nói to để người ngoài biết bệnh tình của con bệnh, hoặc cho biết họ mắc bệnh gì (một bà chủ muốn biết người làm công của mình mắc bệnh lao hay không). Ngay cả đối với nhà cầm quyền, các bạn cũng không được tiết lộ những gì bạn biết về thân chủ của các bạn. Khi viên cảnh sát trưởng hỏi ông Dupuytren để biết ai là kẻ phiến loạn trong số người nằm điều trị trong bệnh viện, ông ta đáp: ”Tôi không biết ai là phiến loạn cả, tôi chỉ biết có những người bị thương thôi”
Các bạn cũng nên biết rằng các bạn có thể bị phạt tù nếu các bạn không kín miệng.
Sau hết các bạn phải có lương tâm chức nghiệp, hay nói một cách vắn tắt, các bạn khi hành nghề phải có lương tâm. Giaó sư Jean Gosset đã từng nói;”Trong phòng giải phẫu người thày thuốc là chúa tể sau đức Thượng Đế nhưng có trách nhiệm trước lương tâm của mình”
Không riêng gì thày thuốc ngoại khoa mà có thể nói một cách tổng quan là không một ai có thể kiểm soát nỗi một bác sĩ ngoại trừ lương tâm của họ
Sởv dĩ ngày nay y học không có một địa vị xứng đáng trong xã hội, sở dĩ người thày thuốc không được trọng vọng, không được kính nể như hồi xưa (kể cả ở Việt Nam) là bởi trong nghề của chúng ta có một số con chiên ghẻ, thiếu lương tâm chức nghiệp.
Các bạn thân mến
Nghề thuốc mà các bạn đã lực chọn không giống những nghề khác. Nhất định không, một trăm, một ngàn lần không. Ai đã chọn nghề này cần phài biết rằng có nhiều cái không được phép làm, và phạm tới những cấm điều đó, tức là làm hoen ố nghề mình.
Nếu các bạn không muốn sống khắc khổ, không sẳn sàng hi sinh tốt hơn hết là các bạn tìm một nghề khác, ngay từ bây giờ cũng chưa muộn. Không thiếu gì nghề ngoài nghề thuốc vừa đem lại cho các bạn danh giá tiền bạc lại không vất vả, nhất là không có trách nhiệm gì hết.
Có người, nhiều người lắmtưởng rằng nghề thuốc cũng như nghề đi buôn. Kỳ thực, giữa nghề đi buôn và những nghề tự do, trong đó có nghề thuốc, có một hố sâu không sao lấp được.
Mục đích nghề đi buôn là mua rồi bán để lấy lời. Giá hàng cao hay hạ là tùy thuộc ở món hàng tốt hay xấu, bền hay không bền.
Trái lại mục đích chính của nghề tự do không phải là tiền tài hay lợi lộc. Người thày thuốc khi săn sóc một người ốm, cũng như một giáo sư khi giảng bài cho học sinh, sinh viên, đều cố gắng hết sức mình chứ đâu có nghĩ tới tiền thù lao, lương lậu ?
Người đi buôn có quyền làm quảng cáo rùm beng, hoặc trên báo, hoặc trên đài phát thanh, trên đài truyền hình để “câu khách”, hoặc nhờ người dắt mối rồi cho họ ăn hoa hồng.
Người đi buôn có thể rao ầm ỉ để mọi người biết là hàng của họ đep, bền, rè nhất thế giới chẳng hạn mà không sợ ai chê cười. Trái lại, người thày thuốc, biết tự trọng, có liêm sĩ, không được phép làm như vậy. Không những Y sĩ đoàn, Nghĩa vụ luận không cho phép mà chính lương tâm của họ cũng không cho phép.
Người ốm không phải là một món hàng và chúng ta cũng thế, chúng ta không phải là món hàng để cho thiên hạ đem tiền ra mua chuộc. Chính người thày thuốc, khi đem tài nghệ của mình ra để phục vụ người ốm, đã làm ơn cho họ, chứ không phải người ốm, vì đem tiền bạc hay thế lực mà ban ơn cho người thày thuốc”. (Leannec)
Ngoài bổn phận đối với bệnh nhân ra, các bạn còn có bổn phận đối với các bạn đồng nghiệp nữa.
Tôi nhận thấy ngày nay phần đông các bác sĩ không đối xử với nhau như các bậc đàn anh của họ hồi xưa: trên kính dưới nhường. Tuyệt đối các bạn không được nói xấu bạn đồng nghiệp, không được phê bình (với ác ý) chỉ trích cách định bệnh hoặc chữa bệnh của họ, không được gièm pha để tranh khách, không được len lỏi vào một gia đình nếu gia đình đó đã có một dồng nghiệp rồi.
Giáo sư P, V. Badot có kể lại truyện về giáo sư Maranon, một hôm tới bệnh viện Bichat và chăm chú nghe một sinh viên nội trú giới thiệu một bệnh nhân mắc chứng bệnh ở nội tiết tuyến (glandes endocrines) P, V. Badot viết: ”Khi tôi hỏi ý kiến của ông trước mặt đông đủ học trò của tôi thì ông chỉ mỉm cười, không trả lời. Khi chỉ có một mình ông với tôi, tôi nói:
-Thế nào ông có đồng ý không?
Giáo sư Maranon đáp:
-Tôi không hoàn toàn đồng ý với học trò của ông.
-Thế tại sao lúc ấy ông không nói?
-Bởi vì không ai có thể biết sự thật chắc chắn được, Vả lại, không bao giờ được làm mất lòng một bạn đồng nghiệp cả!”
Rồi giáo sư PVBadot kết luận: “Lịch sự tới cực độ ấy là một đặc tính của ông. ”
Còn một điều này nữa tôi muốn nói với các bạn, là ngoài nghề thuốc racác bạn cần phải trau dồi văn hóa, không những trên lãnh vực khoa học mà cả trên lãnh vực văn chương nữa. Ở vào thời buổi này một nhà khoa học phải ham thích văn chương cũng như một nhà văn, không thể không biết tới khoa học.
Chính nhờ văn hóa mà bạn có óc phê bình, sự phán đoàn của bạn được sắc bén, mau lẹ và minh mẫn, trí tuệ không bị cùn nhụt, căn cỗi, thành chai, tâm hồn của bạn vẫn giữ được trẻ trung mãi mãi.
 Giáo sư P, V. Badot đã viết:
Phải mở mang trí tuệ của thnh niên hơn là để họ sống gò bó trong khuôn khổ chật hẹp của y khoa.
Tôi nhận thấy nhiều danh y của thế giới, hoăc nhiều giáo sư đại học, đều là những người hiếu học, ham đọc sách, yêu sách, yêu nghệ thuật, học thức rất uyên thâm, vừa là thầy thuốc trứ danh, vừa là nhà văn nổi tiếng, như Mondor (nổi danh nhờ con daocây bút và cây cọ) Jean Delay, P. V. Radot, Duhamel…. những người này vừa có chân trong Hàn Lâm viện Y khoa vừa là Hội viên của Hàn Lâm viện Pháp.
Nữ văn hào Han Suyin, Sommerset Maugham, Cronin, trước khi là nhà văn, đã từng làm nghề thuốc.
Tchekov, đại văn hào Nga, vừa sống về nghề thuốc, vừa viết văn. Ông thường nói: ”Y học là vợ chính thức của tôi, còn văn chương là tình nhân. Khi tôi chán bà này thì tôi đi với bà kia. Tuy nhiên đối với cả hai, tôi đều trung thành cả. Nếu không có nghề thuốc, có lẽ tôi không có tài liệu để viết văn. ”
Giáo sư Trousseau già tôi đã dẫn thượng, cũng bảo: Một nhà bác học mà không phải là một nghệ sĩ chỉ là một nhà bác học tầm thường”
Bởi vậy tôi khuyên các bạn, ngoài việc học ra, nên để thời giờ nhàn rỗi, trau dồi văn hóa, rèn luyện văn chương, nghệ thuật (âm nhạc hội họa……) chơi thể thao, để cuộc đời đỡ buồn tẻ, vì theo tôi, nếu suốt đời làm mãi một nghề, bất cứ nghề gì, mà vẫn hăng say, không thấy chán thì quả thật là một sự lạ.
Không những để cuộc đời khỏi buồn tẻ mà còn làm cho đời sống thêm phong phú, để biết sâu hiểu rộng, ngoài lãnh vực y khoa.
Người ta thường so sánh thày thuốc với ông Cha sở và ông Luật sư. Tôi không mang tiếng mắc bệnh chủ quan nếu phê bình vai trò của ba loại người đó, mặc dầu ở đây chỉ có các bạn và tôi mà chỉ xin dẫn Balzac và Duhamel là hai văn hào đã viết rất nhiều về cuộc đời của mấy nhân vật đó. Balzac nói:
Tôi cho rằng sở dĩ văn minh tiến bộ và nhân loại được sung sướng là nhờ ba người này”
Nhưng sau khi nhận thức đúng vai trò của người thày thuốc, ông nói thêm:
“Người nhà quê sẳn sàng nghe lời người kê toa cho mình để họ khỏi bệnh hơn là nghe lời ông Cha sở diễn thuyết về việc cứu vớt linh hồn. Một đàng có thể nói chuyện với họ về đồng áng và một đàng, chỉ có thể bàn với họ về thiên đàng, điều mà họ ít quan tâm tới. ”
Còn Duhamel thì viết về ba vị đó như sau:
“Ông luật sư mà ta nhờ cậy để bệnh vực công lý cho ta có thể chọn ngày giờ để tiếp khách. Nếu ông yêu nghề, ông sẽ hăng hái làm việc, dù sao, không có gì cấp bách cả. Đối với thân chủ của ông, dù sao tình thương không quý bằng tài hùng biện, bằng sự khôn khéo, bằng giao thiệp rộng.
Công việc của một nhà tu hành có thể ví với công việc của người thày thuốc. tuy nhiên tôi cần nói ngay là chỉ khi nào hấp hối, người ta mới mời ông Cha Sở. Lương tâm dù bị cắn rứt, đợi đến sáng hôm sau cũng không muộn. Nhưng thường thường khi lên cơn đau vì trong thận có sạn, thì không thể nào đợi được. Ít khi người ta đánh thức ông Cha sở, dù ông này tốt, vì có người ăn năn sám hối; nhưng hơi nhức đầu một tí, có khi chẳng sao cả, đang đêm người ta cũng dựng ông thày thuốc dậy. ”
Các bạn sinh viên thân mến
Tôi vừa phác họa ra đây hình ảnh của một người thày thuốc, xứng đáng với danh từ ấy, suốt đời tận tụy, hi sinh cho người ốm, không quản vất vả, không mấy khi có thì giờ để nghỉ ngơi, giải trí, bữa ăn giấc ngủ thất thường, ngay đến những thú vui trong gia đình cũng không được hưởng, đã thế lại gặp nhiều bội bạc, hoăc có khi bị chính các bạn đồng nghiệp dèm pha, ghen ghét.
Tuy vậy nhưng tôi chưa hề thấy một người thày thuốc nào than phiền về cái nghề của họ, vì đó là một nghề cao đẹp, cao đẹp hơn hết mọi nghề khác cao đẹp ở chỗ tất cả những cảnh khổ não trên thế gian này chỉ càng thắt chặt thêm mối dây liên lạc giữa người thày thuốc với người ốm, không phân biệt giàu sang hay nghèo hèn, cao đẹp ở chỗ chỉ có nghề thuốc mới dung hòa được khoa học với lý trí và tình thương.
Và để kết thúc buổi nói chuyện, kể cũng khá dài rồi, tôi xin mượn lời giáo sư E. Rist, trích trong cuốn: Y học là gì ?(Qu’est-ce la Medicine ?)
Muốn lúc nào cũng lãnh được hết trách nhiệm tinh thần của nghề chúng ta, chỉ có cách chắc chắn nhất, ấy là chuyên tâm vào nghề của mình, yêu nghề đó tha thiết, và luôn luôn cố gắng để mỗi ngày một tiến.
Người thày thuốc muốn được tín nhiệm cần phải xứng đáng là người thày thuốc, cần phải có một nếp sống giản dị, không xa hoa đàng điếm, phải lập gia đình và ở trong gia đình, nêu một tấm gương thanh bạch đứng đắn.
Người thày thuốc phải sống thực tiễn và sống theo thời đại. Trí tuệ phải được rèn luyện, trau dồi luôn, hợp nhân đạo. Đối tượng của sự học là con người, con người toàn diện.
Người thày thuốc không những nên tìm hiểu con người trên lãnh vực khoa học mà còn cần biết đến đời sống tâm linh nhờ được tiếp xúc với đủ mọi tầng lớp người, nhờ được trông thấy những thử thách của cuộc đời và làm quen với những kiệt tác của nhân tâm, của nghệ thuật và của khoa học.
Sống cho người thân yêu và cho nghề của mình, đó không phải là một đề mục khá đẹp cho một mộ chí hay sao? Và nếu lại còn được cái đặc quyền sống cho Tổ Quốc nữa thì thật là sung sướng vô cùng. Và chung quy có lẽ đó là một cách thẳng thắn nhất để sống cho nhân loại. 
Tôi thành thật cầu chúc cho các bạn sẽ là người thày thuốc gương mẫu đó.

Theo ykhoa.net














Saturday, October 4, 2014

HƯỚNG DẪN ĐỌC ĐIỆN TÂM ĐỒ TRẦN ĐỖ TRINH

Tạp chí News Week đăng ảnh GS, TS Trần Đỗ Trinh
phát biểu tại Đại hội Tim mạch ASEAN lần thứ 12 (Phi-líp-pin 1998).
Hướng dẫn đọc điện tâm đồ là quyển sách gối đầu giường cho rất nhiều thế hệ sinh viên y khoa, tuy sách đã tái bản nhiều lần nhưng vẫn giữ nguyên giá trị. Sách viết những vấn đề căn bản thích hợp cho sinh viên y khoa năm 3 - 4. Tác giả sách là GS. TS. Trần Đỗ Trinh, người nghiên cứu ECG bài bản đầu tiên ở Việt Nam. Xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn.
Link tải http://www.oni.vn/Qiu9C



Nhận công tác ở Bệnh viện Bạch Mai một thời gian, bác sĩ Trần Đỗ Trinh đã được phân công báo cáo bệnh án một bệnh nhân bị hẹp van tim hai lá trong một cuộc hội chẩn quốc tế tại Bệnh viện Việt - Đức do GS Viện trưởng Tôn Thất Tùng chủ trì. Sau khi nghe trình bày bệnh án, cuộc hội chẩn đã kết luận "có chỉ định phẫu thuật".


GS Tôn Thất Tùng là người mổ thành công ca mổ tim đầu tiên này ở Việt Nam năm 1958, được thế giới ca ngợi vì nó được thực hiện trước nhiều nhà y học các nước khác trên toàn cầu, chỉ sau ca mổ đầu tiên trên thế giới năm 1948 của giáo sư ở Bai-lây (Bailey, Mỹ) 10 năm.
Từ khi bác sĩ Trần Đỗ Trinh còn làm bác sĩ rồi Trưởng phòng điều trị Bệnh viện Bạch Mai, ông luôn tận tâm tận lực vì người bệnh. Năm 1960, sau khi về Viện hai năm ông đã tổ chức một công trình điều tra huyết áp cho hơn 10.000 người.
Thời gian này, kiến thức điện tâm đồ (ĐTĐ) còn đơn giản. Bác sĩ Trần Đỗ Trinh đã dày công nghiên cứu trên các bản ĐTĐ ghi được của hàng trăm bệnh nhân để thực hiện các công trình nghiên cứu, rồi từ đó biên soạn nhiều cuốn sách về ĐTĐ xuất bản đầu tiên từ năm 1963, góp phần làm ĐTĐ trở thành một thường quy đặc biệt quan trọng trong lâm sàng.
Kỹ thuật sốc điện đưa dòng điện 7.000V vào lồng ngực bệnh nhân loạn nhịp tim, lúc đầu chưa được mọi người đồng tình vì sợ nguy hiểm. Mãi tới năm 1973 sau báo cáo tổng kết của nhóm bác sĩ Trần Đỗ Trinh, Vũ Văn Đính, Hàn Thành Long, Nguyễn Ngọc Tước, công trình mới được đánh giá cao và được khen thưởng.
Việc cấy máy tạo nhịp tim vào cơ thể bệnh nhân bị loạn nhịp tim do nhóm các bác sĩ Vũ Văn Đính, Trần Đỗ Trinh, Đặng Hanh Đệ thực hiện năm 1973 đã đưa việc điều trị bệnh loạn nhịp tim đến một thành công tốt đẹp hơn.
Năm 1972, Bộ Y tế và Bệnh viện Bạch Mai đã quyết định thành lập Khoa Tim mạch đầu ngành do bác sĩ Trần Đỗ Trinh làm chủ nhiệm.
Cuối năm đó, tối 18-12-1972, giặc Mỹ dùng máy bay B.52 đánh vào trung tâm Hà Nội. Theo kế hoạch đã định, bác sĩ Trần Đỗ Trinh đạp xe, vượt bom đạn đến thẳng Bệnh viện Bạch Mai. Tuy là bác sĩ nội nhưng Trần Đỗ Trinh vẫn tận tụy suốt đêm, ngày trên các bàn mổ. Chưa ăn xong bữa trưa thì báo động tiếp. Lần này Bệnh viện Bạch Mai đã là mục tiêu bắn phá của B.52 Mỹ. Bom rơi trúng các khoa Xét nghiệm, phòng Dược, phòng khám Đa khoa, Viện Tai Mũi Họng, bốt điện.
Bác sĩ Trần Đỗ Trinh kể lại:
- Thời gian này, một số bác sĩ, nhân viên và bệnh nhân đã phải chuyển ra vùng Vân Đình và một số nơi khác ở ngoại ô Hà Nội. Những bác sĩ, công nhân viên ở lại, hầu hết phải ăn ngủ, trực tại bệnh viện để cứu chữa thương binh, bệnh binh và những người bị nạn. Chiều tối ngày 21-12-1972, tôi vừa giảng bài, truyền đạt một số kinh nghiệm cứu chữa bệnh cho một số sinh viên Trường Đại học Y thực tập ở bệnh viện thì lại còi báo động. Anh chị em Khoa Tim mạch chúng tôi vừa xuống hầm thì một lần nữa Bệnh viện Bạch Mai bị oanh tạc. Lần này chính căn hầm dưới khoa chúng tôi bị trúng bom B.52. Trong số 25 bác sĩ, sinh viên, công nhân viên tại khoa trong hầm lúc đó thì 11 người đã hy sinh.
Sau 12 ngày đêm chiến đấu chống B.52 Mỹ hồi đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, các đồng chí Lê Đức Thọ, Tố Hữu, Trần Duy Hưng, vợ chồng Quốc trưởng Cam-pu-chia Nô-rô-đôm Xi-ha-núc cùng nhiều phái đoàn quốc tế khác đã đến thăm nơi cứu chữa thương binh, nạn nhân và những nơi bị máy bay giặc Mỹ tàn phá trong bệnh viện.
Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, bác sĩ Trần Đỗ Trinh nhận quyết định làm Phó giám đốc Bệnh viện Bạch Mai, Viện trưởng Viện Tim mạch Việt Nam, được phong Giáo sư, Thầy thuốc ưu tú rồi Thầy thuốc nhân dân, nhiều nhiệm kỳ là Chủ tịch Hội Tim mạch Việt Nam, đã có công đưa Hội Tim mạch Việt Nam gia nhập Liên đoàn Tim mạch Thế giới (WHF) và Liên đoàn Tim mạch ASEAN (AFC). Ông là người Việt Nam đầu tiên được bầu làm thành viên Tim mạch học Hoa Kỳ.

GS Trần Đỗ Trinh đã được mời tham gia nhiều cuộc hội nghị và Hội thảo khoa học trên thế giới, tham gia đào tạo hàng nghìn sinh viên, bác sĩ chuyên khoa, tiến sĩ trong và ngoài nước, đã viết được hơn 100 đề tài khoa học về tim mạch được công bố trên các sách báo và nhiều phương tiện thông tin đại chúng khác.
Năm 2008, kỷ niệm 100 năm thành lập trường Bưởi - Chu Văn An, một bạn đã đưa Trần Đỗ Trinh xem cuốn sổ lưu niệm có bút tích của anh ghi từ tháng 1-1950, lúc chia tay các thầy, bạn trường Trung học Chuyên khoa Kháng chiến Chu Văn An lên đường đi chiến đấu, trong đó có câu: "Hẹn sẽ gặp lại nhau ở Xoóc-bon (Sorbonne)". Cô bạn hỏi:
- Trinh viết câu này trong lúc chúng ta gạo, sắn không đủ ăn, áo không đủ mặc. Nhiều bạn cho là quá mơ mộng. Thế sau này đã có lần nào Trinh đến Xoóc-bon?
- Mình đã hơn một lần đến Trường Đại học Xoóc-bon, nhìn ngắm chân dung những nhà bác học của Xoóc-bon trong gần 800 năm qua cống hiến cho nhân loại và giảng dạy cho nhiều sinh viên khắp toàn cầu biết bao kiến thức đầy uy quyền và sức mạnh. Và mình biết có một số bạn học Trường Bưởi - Chu Văn An chúng ta cũng đã tới đó...
Từ khi còn là một học sinh, sinh viên cho đến khi ra trường, công tác, tham gia chiến đấu, Trần Đỗ Trinh luôn là một người ham học và học giỏi về nhiều mặt, luôn nhiệt tình tận tụy hết lòng vì sự nghiệp y tế, vì người bệnh, luôn hoàn thành tốt mọi việc mà anh đảm nhiệm, luôn lãng mạn, yêu đời và có nhiều hoài bão lớn. Những đức tính ấy đã góp phần mang đến những thành công trong cuộc đời hoạt động của ông.
Đã bước vào tuổi 80 nhưng GS Trần Đỗ Trinh vẫn giữ được những đức tính vốn có trước đây, vẫn chịu khó tiếp tục nghiên cứu viết nhiều tài liệu đóng góp cho những hoài bão mà ông hằng đam mê theo đuổi, vẫn luôn giữ được những quan hệ thân tình với bạn bè, người thân và nơi ông sinh sống ở Thái Hà, Hà Nội.
Theo cpd.vn

Friday, October 3, 2014

DƯỢC THƯ QUỐC GIA VIỆT NAM - MỘT DƯỢC ĐIỂN QUÝ GIÁ

Dược thư quốc gia mới được bổ sung 200 chuyên luận, nâng tổng số lên 700 chuyên luận, mỗi chuyên luận dành cho một thuốc thường dùng.
Ngoài ra, Dược thư quốc gia có 20 chuyên luận chung giới thiệu những vấn đề tổng quát như cách dùng thuốc, tác dụng không mong muốn của thuốc, nguyên tắc sử dụng thuốc cho trẻ em, tương tác, ngộ độc thuốc và cách giải độc, dị ứng và xử trí.
Dược thư quốc gia được các chuyên gia về dược học biên soạn công phu nên rất có giá trị trong quá trình điều trị và sử dụng thuốc hằng ngày.

Wednesday, October 1, 2014

KINH NGHIỆM DOWNLOAD MIỄN PHÍ BÀI BÁO KHOA HỌC TRÊN CÁC TẠP CHÍ Y KHOA


Vào năm cuối y khoa, khi chuẩn bị làm đề tài tốt nghiệp thì việc quan trọng đầu tiên là tìm được tài liệu tham khảo. Trên trang Pubmed có hàng triệu bài viết y khoa, tuy nhiên những bài có giá trị thường tính phí. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu những kinh nghiệm lấy những bài báo fulltext miễn phí của nhóm sinh viên ĐHYD TP.HCM.

Bước 1:
Kiểm tra file có cho tải miễn phí không? Trên Pubmed luôn luôn có mục link bài báo gốc, một số sẽ cho tải bài báo miễn phí (free full text).

Kế tiếp vào Google Scholar search "title" của bài báo link download fulltext bài báo có thể thấy trong ô màu đỏ từ nguồn gốc của bài báo hay từ thư viện của trường bạn (ô xanh).

Nếu vẫn chưa có bạn search "tựa bài báo" AND PDF trên google, hay "tựa bài báo" ANDResearchgate. Nếu tác giả upload bài báo bạn sẽ thấy chữ download, nếu không, bạn có thể yêu cầu tác giả gởi cho bạn bài báo thông qua Researchgate account bằng cách click vào request. Một người làm nghiên cứu khoa học nên có account của Researchgate, nó khá có ích như facebook, bạn có thê hỏi về method, bất kỳ lĩnh vực nghiên cứu gì trên đó.

Bước 2: nếu bài báo không free, bạn vào trang sau: http://gen.lib.rus.ec/. Nhập mã DOI vào ô Scientific để tìm. Số DOI này bạn có thể thấy trên trang abstract của bài báo trên Pubmed (hình bên dưới).

Bước 3: nếu vẫn không có link bài báo, bạn vào http://sci-hub.org/. Nhập vào ô tìm kiếm link gốc của bài báo (nhớ là link gốc không phải link pubmed). Nếu may mắn bạn sẽ được tải file bài báo ngay, nếu không thì trang web dẫn bạn tới trang bài báo gốc, bạn tìm nút Download nhấn vào thì có khả năng sẽ tải được bài báo.

Bước 4: Nếu tự tìm không được, các bạn vào các group facebook như:https://www.facebook.com/profile.php?id=188053074599163 (nhóm tải báo), https://www.facebook.com/profile.php?id=461175494012327 (nhóm tải tài liệu khoa học) post link bài báo để xin.

Các nhóm quốc tế khác:

Lưu ý: nếu bạn không tự tìm trước trên gen.lib hoặc sci-hub, những người trên group này sẽ không giúp các bạn tải đâu.

 Bước 4: Nếu bạn vẫn chưa tìm được bài báo, bạn có thể gởi email trực tiếp tới tác giả, bạn nên dùng account yahoo hay google email khoảng 20-30% các tác giả sẽ gởi bài cho bạn nếu bài báo xuất bản gần đây (sau 2000).


Bước 5: Bạn mua báo từ thư viện trường của bạn, đôi khi họ làm biếng và bảo không có, bạn tìm thư viện nào đó có bài báo, bạn có thể kiếm người Việt nào đó copy giùm cho bạn.

Trên đây chỉ là kinh nghiệm ít ỏi mà nhóm mình có được. Mọi người nếu có các phương pháp khác thì giới thiệu cho các bạn khác nữa nhé. Cảm ơn các anh chị và các bạn.

Vào Google Scholar search "title" của bài báo link download fulltext bài báo có thể thấy trong ô màu đỏ từ nguồn gốc của bài báo hay từ thư viện của trường bạn (ô xanh).Vào Google Scholar search "title" của bài báo link download fulltext bài báo có thể thấy trong ô màu đỏ từ nguồn gốc của bài báo hay từ thư viện của trường bạn (ô xanh).
Vào Researchgate: Nếu tác giả upload bài báo bạn sẽ thấy chữ download, nếu không, bạn có thể yêu cầu tác giả gởi cho bạn bài báo thông qua Researchgate account bằng cách click vào request.Vào Researchgate: Nếu tác giả upload bài báo bạn sẽ thấy chữ download, nếu không, bạn có thể yêu cầu tác giả gởi cho bạn bài báo thông qua Researchgate account bằng cách click vào request.

Trần Tiểu Tiên (ĐH Y Dược TPHCM), Nguyễn Phước Long (ĐH Y Dược TPHCM),
Nguyễn Tiến Huy (ĐH Nagasaki)

HEART MURMURS NGHE ÂM THỔI TIẾNG TIM

  • ERIC STRONG
  • Resident, Stanford University, Internal Medicine (2006)
  • Intern, Stanford University, Internal Medicine (2004)
  • M.D., New York University, Medicine (2003)
  • B.S., Massachusetts Institute of Technology, Biology (1998)
Nghe âm thổi trong tiếng tim là phương pháp đánh giá các bệnh lý ở tim quan trọng trên lâm sàng. Bài giảng của TS. BS. Eric Strong Đại học Standford rất đầy đủ, nhiều khía cạnh giúp ích rất nhiều trong thực hành lâm sàng, tác giả đưa ra ví dụ, có âm thanh và phân tích từng ví dụ cụ thể giúp các sinh viên y khoa dễ dàng nắm được vấn đề khó mà quan trọng này.


Bác sĩ A Di

Friday, September 26, 2014

MUỐN GIỎI Y KHOA PHẢI HIỂU LỊCH SỬ Y KHOA

Nếu không hiểu quá khứ, bạn sẽ không hiểu hiện tại. Và chỉ khi đã hiểu tường tận quá khứ và hiện tại, bạn mới có thể dự đoán được tương lai.

Đi vào lịch sử y khoa bạn sẽ tiếp nhận, gắn bó với những bậc danh y, những thầy thuốc tận tâm từ đó bạn sẽ được tiếp thêm nguồn cảm hứng, an ủi, và rước lấy những ngọn đuốc truyền thừa qua nhiều thế hệ.
Học lịch sử y khoa giúp bác sĩ biết khiêm tốn và tôn trọng ý kiến người khác. Bởi vì, để tìm ra một quy luật, một giả thiết về bệnh tật người thầy thuốc phải trải qua một quá trình gian khổ, có khi bỏ cả một cuộc đời cống hiến cho sự nghiệp y khoa mà không được biết đến, mãi đến hàng thế kỷ sau mới được công nhận.

Học lịch sử y khoa giúp bác sĩ hoàn thiện và phong phú thêm vốn hiểu biết; đó là một trong những yếu tố căn bản để xây dựng một khối văn hoá rất cần thiết cho con người thầy thuốc chân chính.


PHÁC ĐỒ NHI KHOA BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1

Phác đồ nhi khoa bệnh viện nhi đồng 1 là quyển phác đồ nổi tiếng nhất trong nhi khoa, với các bệnh lý phong phú và thiết thực. Thuận tiện cho sinh viên y khoa đi lâm sàng, trực gác và các bác sĩ điều trị. Nói chung là sách rất hay!


Link tải:https://drive.google.com/file/d/0B_aQ4t-kM1coWUlZWnVSTzd0Wnc/view?usp=sharing