Thursday, December 24, 2015

LIỆT DÂY THẦN KINH VII

  1.  ĐẠI CUƠNG
    1. Dây VII là dây hỗn hợp : vận động, cảm giác, thực vật, dinh dưỡng và phản xạ
    2. Đường đi : dây VII từ rảnh hành - cầu đi ra ngoài và chia thành 03 đoạn là 
      1. Trong sọ
      2. Trong xương đá (từ lỗ tai trong --> lỗ tram chũm) và 
      3. Ngoài xương đá ==> chia 02 nhánh : 1. Nhánh thái dương - mặt ở trên chi phối nhóm cơ trán, cơ mày và cơ vòng mi. 2. Nhánh cổ - mặt ở dưới chi phối cơ vòng miệng, nhóm cơ mặt dưới
    3. Khác với các dây tk sọ khác, dây VII còn chịu sự chi phối của vỏ não. Nên khi có tổn thương dây VII người ta phân biệt tổn thương đó là ngoại biên (từ nhân trở xuống) hay trung ương ( tổn thương trên nhân)
  2. BIỂU HIỆN LIỆT VII TW & NB
    1. LIỆT VII NB. Mất cân đối 02 bên mặt, bên liệt sẻ thấy :
      • Mặt
        • Trạng thái tĩnh : mất nếp nhăn ,mặt bất động và bị kéo về bên lành, má xệ xuống,...
        • Trạng thái động : mất khả năng nhăn trán, phồng má, chu môi,...
      • Mắt 
        • Mắt nhắm không kín (Lagophthamus)
        • Charles - Bell (+) : khi nhắm mắt mắt không kín đồng thời nhãn cầu di chuyển lên trên và ra ngoài
        • Negro (+) : Khi nhắm mắt và nhìn lên trên đồng tử bên tổn thương cao hơn bên lành.
        • Dấu Pierre Marie - Foix (+) : dùng để phát hiện liệt VII trên bệnh nhân hôn mê, bằng cách ấn vào 02 góc hàm / giật tóc mai bệnh nhân sẻ nhăn mặt ==> phát hiện liệt VII
    2. LIỆT VII TW
      • Chỉ liệt 1/4 dưới của mặt
      • Không có dấu Charles - Bell
    3. PHÂN BIỆT LIỆT VII NB & TW
      • LIỆT VII
        NGOẠI BIÊN
        TRUNG ƯƠNG
        Bên biểu hiện
        Toàn bộ ½ mặt cùng bên tổn thương
        ¼ dưới đối bên tổn thương
        Dấu hiệu điển hình
        Charles – Bell (+)
        Charles – Bell (-)
        Vị trí não tổn thương
        Từ nhân trở xuống
        Trên nhân
      • Chú thích : Dây VII có 02 nhân vận động, nhân bụng ở trên & nhân lưng ở dưới
        • Nhân bụng nhận tín hiệu từ 02 bên vỏ não ==> chi phối nữa trên mặt cùng bên tổn thương
        • Nhân lưng nhận tín hiệu chỉ duy nhất từ vỏ não đối diện và chi phối vận động nửa mặt dưới
      • Do vậy : Khi tổn thương vỏ não trái thì nhân lưng phải bị ảnh hưởng --> 1/4 dưới mặt phải bị liệt. Ngược lại, nếu vỏ não trái bị tôn thương thì nhân lưng phải mất chi phối --> 1/4 dưới mặt phải liệt
Nguồn: http://bshanhkhat-thankinh.blogspot.com/

Wednesday, December 23, 2015

TỔNG HỢP TẤT CẢ BÀI GIẢNG TIM MẠCH PGS PHẠM NGUYỄN VINH

Download  ở đây: https://drive.google.com/file/d/0B_aQ4t-kM1coOWVPV2dvc3NLd1U/view?usp=sharing

Chức vụ:
      -    Nguyên Phó Giám đốc Viện Tim TPHCM
      -    Giáo Sư thỉnh giảng Bộ môn dược lý  ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch.
      -    Phó Chủ Nhiệm Bộ môn Nội ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch.
      -    Phó chủ tịch Hội tim mạch TPHCM
      -    Ủy viên ban chấp hành Hội tim mạch Việt Nam
      -    Ủy viên Hội đồng khoa học Hội tim mạch Việt Nam
      -    Cố vấn Hội thông tim can thiệp Việt Nam
      -    Chủ tịch Phân hội siêu âm tim Việt Nam
Bằng cấp y khoa :
     -    Bằng Bác sĩ Y Khoa Sài gòn
     -    Bằng Tiến sĩ
     -    Chứng chỉ đào tạo chuyên sâu
Kinh nghiệm chuyên môn :
     -    1972 -1975 : BS Trưởng khoa Nội – BV Kiến Tường (Mộc Hóa)
     -    1978 - 1979: BS Phó khoa Tim Mạch – BV Nguyễn Tri Phương (TP.HCM)
     -    1979 - 1990: BS Trưởng khoa Tim Mạch – BV Nguyễn Tri Phương (TP.HCM)
     -    1990 - 1991: Tu nghiệp tại Pháp – BV Fochs và BV Necker Enfant Malade
     -    1991 – 08/2008: Phó Giám Đốc Viện Tim – TP.HCM; phụ trách Nội Tim Mạch
     -    Từ 08/2008 đến nay: Giám Đốc Chuyên môn – BV Tim Tâm Đức.

Saturday, November 28, 2015

YAMADA'S SÁCH GIÁO KHOA TIÊU HÓA GAN MẬT HÀNG ĐẦU 6TH 2016

Download sách ở đây: http://pc.cd/g3UrtalK 400MB

     Quyển sách tham khảo về tiêu hóa và giá trị nhất trong 20 năm qua. Quyển sách là sự kết hợp giữa kiến thức bách khoa về khoa học cơ bản và lâm sàng bệnh lý tiêu hóa gan mật. Quan trọng là 14 chương nhấn mạnh đến 14 triệu chứng lâm sàng thường gặp giúp giải quyết các vấn đề thường gặp trong thực hành lâm sàng hằng ngày.

     Với phiên bản lần thứ 6 này, bộ sách trở thành tài liệu tham khảo ở mức độ toàn cầu, bởi các tác giả mỗi chương là chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực của mình đến từ khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Bắc Mỹ, châu Âu và châu Á.

Wednesday, November 25, 2015

X-QUANG TIM MẠCH NGUYỄN QUÝ KHOÁNG

Download sách ở đây:  https://drive.google.com/file/d/0B0V6R9lDbtE7ZUJuUTBpSjl2TU0/view


  BS NGUYỄN QUÝ KHOÁNG
 Kể từ khi là nội trú về X Quang năm 1974 tại Trung tâm thực tập Y Khoa Gia Định (nay là Bệnh viện Nhân dân Gia Định) đến nay đã là 40 năm, tôi không ngừng truyền đạt các hiểu biết của mình cho các đàn em và các học trò. Có vài học trò giờ đây đã giỏi hơn tôi trong một số kỹ thuật mới, đã có học vị, học hàm cao hơn tôi, đã thành công về tài chánh hơn tôi, tôi xin chúc mừng họ. Người xưa có nói: “Con hơn cha là nhà có phúc”, còn tôi xin phép tổ tiên để dựa vào câu trên mà nói rằng “Trò hơn thầy là phúc nước nhà”. Với sự tiến bộ của Khoa học nói chung và ngành Chẩn đoán hình ảnh nói riêng, tôi thấy mình bắt đầu hụt hẫng trước các kỹ thuật mới vì khi tuổi đời càng cao thì sự hăng say nghiên cứu, sức khỏe cũng như sự minh mẫn không còn như xưa nữa. Tôi tự ví mình như một thầy giáo làng và mãn nguyện với vai trò đó. Thật sự nếu ngày xưa, không có thầy đồ thì làm gì có tiến sĩ, Trạng nguyên…
        Tôi vẫn nghĩ X Quang quy ước là nền tảng cho Chẩn đoán hình ảnh cũng như khi xây nhà, nền móng có vững  thì nhà mới xây cao được. Chính vì thế mà tôi mong các đồng nghiệp trẻ không quên X Quang quy ước trong sự đào tạo chính mình. Có khi, chỉ với một phim X Quang quy ước được khai thác đúng mức, chúng ta đã có thể chẩn đoán ra bệnh và có thể tiết kiệm cho bệnh nhân về tiền bạc, thời gian… Lẽ dĩ nhiên, tôi không phủ nhận những hạn chế của X Quang quy ước nên nếu gặp trường hợp khó thì chúng ta phải sử dụng đến các kỹ thuật hiện đại hơn.
        

Friday, November 20, 2015

GIÁO SƯ ĐẶNG VĂN CHUNG - SƯ PHỤ CỦA CÁC SƯ PHỤ, CÂY ĐẠI THỤ NỘI KHOA VIỆT NAM

BS ĐỖ THIÊN ĐỒNG
Có một thế hệ của dân tộc Việt nam đã làm nên được những kỳ tích hiển hách,trong những điều kiện cực kỳ khó khăn dường như không tưởng.Thế hệ đó ở bất kỳ lĩnh vực nào ,ở bất cứ vị trí nào trong xã hội dù là giản dị và khiêm tốn nhất họ cũng đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cuộc đời của mình .Và Tổ quốc nhờ có thế hệ những  con người này mà trở nên Anh hùng vẻ vang. Thế hệ đó được gọi là Thế Hệ Vàng của dân tộc Việt nam.Ngành Y cũng vậy cũng có những Thế hệ vàng của mình với những con người xuất sắc ,lừng danh trong Y học nước nhà.Tuy vậy là những người vào ngành Y muộn hơn nên tất nhiên  chúng tôi đã bị thiệt thòi khi không được học nhiều ở lớp tiền bối xuất sắc đó .Trước đó chúng tôi dường như chỉ được nghe kể về họ như những huyền thoại vĩ đại nhưng xa vời. Nhưng may mắn thay tôi là lớp học trò gần như cuối cùng đã được học ,được quan sát cách làm việc, được gần gũi hàng ngày với một trong những con người vĩ đại của nền Y học Việt nam:GS Đặng Văn Chung.

   Ngày lên lớp đầu tiên,khi thầy vào giảng bao giờ cùng có một GS ở một lĩnh vực khác trợ giảng với Thầy.Nhìn thầy chúng tôi có cảm giác đó là một ông già rất đỗi hiền lành, gần gũi và hơi chậm chạp, Thầy có đôi mắt ánh lên vẻ hóm hỉnh thông minh hiền hậu. ( Lúc đó vào khoảng năm 1996-1997) thầy đã 83-84 tuổi rồi .Nhưng khi bắt đầu bài giảng là thầy toát lên vẻ sắc sảo nhanh nhẹn, linh hoạt uyên bác đến lạ kỳ.Chúng tôi những lũ học trò tinh nghịch đã rất lấy làm khoái chí khi thấy những GS trợ giảng ,đó là những ông thầy khác đều là những người đứng đầu một ngành khoa học. Những con người từng rất đạo mạo khắt khe nghiêm khắc với học trò thì nay lại phải đứng im thin thít lặng lẽ tâm phục khẩu phục trước sự quở mắng về kiến thức chuyên môn ở rất nhiều lĩnh vực của Thầy.Như vậy đấy trước GS Đặng Văn Chung -   tất cả các học trò đã phải lộ nguyên hình những lỗ hổng kiến thức ,những hiểu biết nông cạn và non nớt của mình ,kể cả những GS đáng kính của chúng tôi.

   Để có được một khối kiến thức đồ sộ ,sâu rộng và uyên bác ở hầu như tất cả các lĩnh vực trong Y học như vậy ở Thầy ngoài sự thông minh của trí tuệ,sự say mê với nghề nghiệp, còn là một thành quả của sự lao động miệt mài đến vô cùng.Thầy kể với chúng tôi thầy xuống nhà xác hàng ngày và tự tay phẫu tích hàng nghìn các xác chết để tìm câu trả lời nguyên nhân ,xác định  những thiếu sót trong chẩn đoán và điều trị.Thời của Thầy còn không có đủ thuốc sát trùng ở nhà xác,cách  duy nhất lúc đó là lấy tro bếp đẻ sát trùng.Thầy hài hước kể rằng có lần đang say mê làm việc ,Thầy đã phát hoảng khi một cánh tay do co cơ của người chết đánh vào mặt mình. Thầy nói với chúng tôi chính người chết mới là người thầy công tâm nhất với bác sỹ chúng ta.Chúng con biết vậy nhưng cũng xin vái Thầy vì có lẽ chẳng ai dám làm được như Thầy vậy.
   
   Có một thực tế  là các bác sỹ chúng tôi mỗi người chỉ thạo một lĩnh vực chuyên khoa của mình ,còn những chuyên khoa khác phải tin vào kết luận của các BS lĩnh vực đó.Thế mà đã có những lần Thầy xem kết quả xét nghiệm Thầy đã bắt mang trả ngay tức khắc và bắt làm lại ,và kết quả đúng như vậy.Thầy nói tôi đã tự tay làm những xét nghiệm này nhiều lần và không thể có kết quả vô lý như vậy.Thật là tâm phục khẩu phục .
   Một lần các GS trợ giảng cũng muốn thử tài Thầy chăng? Hoặc muốn học thêm gì đó ở Thầy nên thường thì hay đưa những bệnh nhân cực khó , những bệnh nhân đã được các GS, bác sỹ nhiều lớp đã xem đi xem lại nhiều lần,với,những nhận xét bệnh án dầy hàng tập.Mọi thứ dường như đã được xem xét kỹ đến mức dường như không có chuyện gì để nói hoặc giảng thêm gì ở đây cả.Một trường hợp như vậy Thầy Chung đã xem : Một bệnh nhân gầy gò, ốm o suy kiệt khi ở giai đoạn cuối của bệnh tật, có một cái tên thuần túy Việt nam và ở một vùng quê nghèo. Thật bất ngờ khi Thầy bảo ngay sau khi vừa sờ vào người bệnh nhân :" Đây là người lai tây " .Vậy là bao nhiêu GS ,bác sỹ đã bỏ sót chi tiết quan trọng của việc khai thác tiền sử bệnh nhân.Tại sao thầy biết ngay vậy? Chúng tôi hỏi.Thầy nói đó là sự quan sát tỷ lệ giải phẫu đầu,mặt cổ ,tay chân của người châu Âu khác với người châu Á.
   Thầy đã giảng cho chúng tôi một cách say sưa và dễ hiểu.Những vấn đề khó khăn phức tạp và vô tận của kiến thức khoa học Y học đã được Thầy biến thành những điều giản dị , thú vị và hấp dẫn chúng tôi.Kiến thức của Thầy 
dường như vô tận.Một sợi tóc Thầy có thể nói về những hiểu biết về nó hàng giờ đồng hồ.Bọn học trò chúng tôi hay lười và chỉ muốn nghỉ.Có hôm Thầy say sưa quá đã hơn 1 giờ trưa ,không biết làm thế nào để được nghỉ ,với áp lực của các bạn,tôi là lớp trưởng đã nghĩ ra một mẹo:đánh rơi cặp đánh "rầm" .Thế là Thầy giật mình ,tôi lý nhí xin phếp Thầy cho lớp nghỉ,Thầy bật cười và tha thứ cho sự nghịch ngợm của học trò.
   Có lần nhân sự thân mật giản dị gần gũi của Thầy, tôi đã dám hỏi cả những vấn đề khó nói trong Y học lúc bấy giờ .Và thật bất ngờ Thầy nói thầy đã " có đến 2 gian rưỡi sách về vấn đề đó " .Nhờ đó mà tôi đã thấy được phần nào sự uyên bác, sâu sắc, cương trực và trung thực của Thầy   ở tất cả những lĩnh vực Y học .
   Nói và viết về Thầy GS Đặng Văn Chung đã có quá nhiều, cũng như cả một di sản đồ sộ mà Thầy đã để lại cho chúng ta.Tôi chỉ là một học trò rất nhỏ trong rất nhiều thế hệ học trò của Thầy.Tuy nhiên nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Thầy (1913-2013) từ một góc nhìn hạn hẹp xin được phép kể vài kỷ niệm để tưởng nhớ đến một người Thầy thuốc ,Thầy giáo vĩ đại đặc biệt mà tôi đã may mắn đã chứng kiến và được nhận là học trò.Vì chỉ 3 năm sau đó (1999) "Cây đại thụ của nền Y học Việt nam" mãi mãi ra đi.


Bác Hồ thăm gia đình GS năm 1962Bác

TÀI LIỆU SIÊU ÂM TIM - CHIA SẺ TỪ GS NORMAN H. SILVERMAN

Download  ở đây: https://drive.google.com/folderview?id=0BxiWaEpMJE5bc0RqN0J3bDBDeXM&usp=sharing
Dung lượng: 2.4Gb

TIỂU SỬ

Administrative Appointments

  • Professor of Pediatrics (Cardiology), Stanford University Medical Center (2002 - Present)
  • Professor of Radiology in Residence, University of California, San Francisco (1985 - 2002)
  • Associate Professor of Pediatrics, University of California, San Francisco (1979 - 1985)
  • Assistant Professor of Pediatrics, University of California, San Francisco (1975 - 1982)
  • Assistant Professor of Pediatrics, Stanford University Medical Center (1974 - 1975)

Honors & Awards

  • Janet Baldwin Lecture, Society of Pediatric Cardiology of New York (1999)
  • Founder's Award, American Society of Echocardiography (2000)
  • Sackler Visiting Fellow, University of Tel Aviv Israel (2001, 2004)
  • 23rd Annual Katkov-Lundeen Visiting Professorship in Pediatric Cardiology, Minneapolis Children's Hospital (2004)
  • 13th Jerome Liebman Visiting Professor, Case Western Reserve University, Cleveland, OH (1996)
  • Garbose Lecture, Children’s National Medical Center, Washington DC (1999)
  • Fellow, American Heart Association (2004)
  • Fellow, American Society of Echocardiography (2004)
  • Award for Excellence in Teaching, American Society of Echocardiography (2008)
  • Roma and Marvin Auerback Scholar in Pediatric Cardiolgy, Lucile Packard Children's Hospital, Stanford University (2005-current)

Professional Education

  • D.Sc.Med., University of the Witwatersrand, Medicine (1985)
  • F.C.P. (S.A.) F.C.P. (S.A.), South African College of Medicine, Pediatrics (1970)
  • M.B., B.Ch., University of the Witwatersrand, Medicine (1966)

https://med.stanford.edu/profiles/norman-silverman

Tuesday, November 10, 2015

BỆNH CƠ TIM ĐÁI THÁO ĐƯỜNG: TỪ BỆNH SINH ĐẾN CHẨN ĐOÁN








BS Trần Hữu Hiền
Tóm tắt
Bệnh cơ tim đái tháo đường là một khái niệm đã được các nhà nội tiết và tim mạch chấp nhận, để nói về các bất thường cấu trúc và chức năng cơ tim ở bệnh nhân đái tháo đường ngoại trừ bệnh mạch vành và tăng huyết áp. Bệnh cơ tim đái tháo đường trải qua ba giai đoạn, đi từ những thay đổi ở mức độ phân tử  đến những rối loạn chức năng và cấu trúc có thể phát hiện qua kỹ thuật hình ảnh. Sinh bệnh học và sinh lý bệnh của bệnh cơ tim đái tháo đường vẫn chưa hiểu rõ hoàn toàn. Sự phát triển của bệnh cơ tim đái tháo đường phụ thuộc nhiều yếu tố, bao gồm: tăng axit béo tự do, sự stress oxy hóa, rối loạn hằng định nội môi canxi, tái cấu trúc chất nền ngoại bào và rối loạn chức năng ty thể. Hai bước quan trọng trong chẩn đoán bệnh cơ tim đái tháo đường đó là: phát hiện các bất thường của cơ tim và loại trừ các nguyên nhân khác gây bệnh cơ tim. Siêu âm tim là kỹ thuật được dùng phổ biến và tiện lợi trong chẩn đoán bệnh cơ tim đái tháo đường. Siêu âm Doppler mô cơ tim là kỹ thuật đáng tin cậy hơn trong đánh giá rối loạn chức năng cơ tim. Sự thay đổi nồng độ các dấu ấn sinh học ở tim có thể phản ánh sự trao đổi chất của cơ tim và cấu trúc cơ tim. Ngoài ra, chụp cộng hưởng từ cũng là công cụ hình ảnh rất tốt cho việc chẩn đoán các rối loạn về cấu trúc và chức năng của cơ tim. Việc dự phòng và điều trị bệnh cơ tim đái tháo đường đặt trọng tâm vào kiểm soát đường huyết ổn định và lâu dài.
Abstract
Diabetic cardiomyopathy is a concept that has been the diabetes and cardiovascular communities embraced, to discuss the structural and functional abnormalities of the myocardium in diabetic patients without coronary artery disease or hypertension. Diabetic cardiomyopathy undergo three phases, going from the changes in the molecular level to the dysfunction and the structure can be detected through imaging techniques. Pathogenesis and pathophysiology of diabetic cardiomyopathy have not been completely understood. The development of diabetic cardiomyopathy depends several factors, including: increased the free fatty acids, increased oxidative stress, disturbing in calcium homeostasis, remodeling the extracellular matrix and dysfunctional mitochondria. Two crucial steps in diagnosing diabetic cardiomyopathy are detection of myocardial abnormalities and eliminate other causes of cardiomyopathy. Echocardiography is the technique convenient and popular in diagnosing diabetic cardiomyopathy. Myocardial tissue Doppler technique is more dependable in the evaluation of myocardial dysfunction. The alteration the level of cardiac biomarkers can reflect the metabolic and structural myocardium. Furthermore, magnetic resonance imaging is advantageous imaging tools for investigating disorders of the structural and functional myocardium. The prevention and treatment of diabetic cardiomyopathy focuses on controlling blood glucose level is stable and permanent.








    

1. Tổng quan
Bệnh tim là vấn đề sức khỏe lớn nhất trong các bệnh không lây mà con người gặp phải. Ở Hoa Kỳ ước tính có khoảng 5 triệu người mắc suy tim, một hội chứng mà tiên lượng tử vong 5 năm gần 50% [26]. Việc tăng tỷ lệ lưu hành của đái tháo đường cũng góp một phần quan trọng vào sự gia tăng của suy tim [7]. Nghiên cứu Framingham và các nghiên cứu khác đã khẳng định đái tháo đường là yếu tố nguy cơ mạnh cho tiên lượng tử vong và bệnh tật ở các bệnh nhân tim mạch [31], [34], [36] đặc biệt là ở phụ nữ [33]. Tỷ lệ lưu hành của rối loạn chức năng tâm trương ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 đã ghi nhận được lên đến 30% trong một số nghiên cứu [17], [42]. Vào những năm thập niên 70, cộng đồng đái tháo đường và bệnh tim mạch đã chấp nhận khái niệm bệnh cơ tim đái tháo đường (diabetic cardiomyopathy) khi tử thiết các bệnh nhân đái tháo đường có bệnh thận [49]. Định nghĩa hiện tại của bệnh cơ tim đái tháo đường bao gồm các bất thường cấu trúc và chức năng cơ tim ở bệnh nhân đái tháo đường không có bệnh mạch vành và tăng huyết áp [6].
2.     Các giai đoạn của bệnh cơ tim đái tháo đường
 Bệnh sử tự nhiên của bệnh cơ tim đái tháo đường được chia làm ba giai đoạn, giai đoạn sớm là đáp ứng sinh lý đối với những thay đổi chuyển hóa của đái tháo đường, giai đoạn muộn là những quá trình thoái hóa dẫn đến tái cấu trúc cơ tim không thể sửa chữa hoặc sửa chữa rất hạn chế [23].
Giai đoạn sớm
Bệnh cơ tim đái tháo đường khởi đầu bằng sự tăng đường huyết và đặc trưng bởi sự rối loạn chuyển hóa bao gồm giảm GLUT4 (glucose transporter type 4), tăng axit béo tự do, giảm carnitine, thay đổi hằng định nội môi canxi và đề kháng insulin. Giai đọan sớm, cấu trúc cơ tim thay đổi không đáng kể và rối loạn chức năng chỉ có thể phát hiện bằng các phương pháp có độ nhạy tốt với kỹ thuật siêu âm doppler mô cơ tim bao gồm: sức căng (strain), tỉ số sức căng (strain rate) và vận tốc mô cơ tim (myocardial tissue velocity). Thay đổi chức năng nội môi xảy ra ở giai đoạn sớm.
Giai đoạn trung gian
Giai đoạn này đặc trưng bởi phì đại và xơ hóa cơ tim. Những thay đổi cấp độ tế bào như khiếm khuyết trong vận chuyển canxi và axit béo có thể dẫn đến tế bào cơ tim tăng sự hoại tử, chết theo chương trình, tăng các chất: angiotensin II, TGF-beta1 kết quả làm cho cơ tim bị tổn thương, chết và xơ hóa, bước đầu gây bất thường dòng chảy van hai lá và giảm phân suất tống máu. Bệnh nhân giai đoạn này có những thay đổi trong cấu trúc cơ tim (kích thước thất trái, độ dày thành và khối lượng) và thay đổi đáng kể chức năng tâm thu và tâm trương có thể phát hiện bằng siêu âm tim thông thường. Tổn thương hệ thống mạch máu cơ tim trong giai đoạn này thường không đáng kể.
Giai đoạn muộn
Trong giai đoạn này đã có những thay đổi vi mạch cơ tim là do những thay đổi đáng kể trong chuyển hóa và sự phát triển quá trình xơ hóa cơ tim. Đặc trưng của giai đoạn này là thay đổi cấu trúc và chức năng của hệ thống vi mạch có thể kèm theo sự co thắt vi mạch thường xuyên. Cấu trúc và chức năng cơ tim đã thay đổi rõ ràng hơn. Tăng huyết áp và bệnh cơ tim thiếu máu cục bộ cũng thường kết hợp với bệnh cơ tim đái tháo đường trong giai đoạn này.
3.     Sinh bệnh học và cơ chế phân tử
3.1. Những biến đổi trong chuyển hóa
Hormon insulin là trung tâm của sự kiểm soát trung gian ở tất cả tế bào, do đó insulin ảnh hưởng sâu rộng trong chuyển hóa carbonhydrat và lipit toàn bộ cơ thể, cũng như ảnh hưởng đáng kể trong chuyển hóa protein. Vì vậy, rối loạn tín hiệu insulin ảnh hưởng rộng khắp và tàn phá nhiều mô trong cơ thể, bao gồm cả hệ thống tim mạch [54].
Glucose và axit béo tự do là hai nguồn cung cấp năng lượng chính cho tim. Tùy vào sự thích nghi sinh lý và bệnh lý mà có sự chuyển đổi cung cấp năng lượng giữa hai nguồn này. Khi nhịn đói, tim sẽ sử dụng axit béo tự do. Sau bữa ăn, khi có stress hoặc thiếu máu cơ tim cục bộ, glucose trở thành năng lượng được sử dụng chủ yếu cho tim. Tuy nhiên ở bệnh nhân đái tháo đường, tim sử dụng axit béo tự do như là chất nền chuyển hóa với nồng độ cao và giảm sử dụng glucose đáng kể bởi vì sự đề kháng insulin và tăng lipid máu [47]. Hậu quả của việc này là giảm hiệu suất tim (cardiac efficiency), là tỷ số hoạt động tim trên lượng oxy tiêu thụ của cơ tim, giảm hiệu suất tim đã được báo cáo trong một số nghiên cứu trên người và động vật mắc đái tháo đường [4], [11], [19], [28].
Chuyên chở glucose vào tế bào giảm khi giảm sự biển hiện của thụ thể GLUT 4 (glucose transporter type 4) ở tế bào cơ tim làm xuất hiện sự đề kháng insulin. Điều này dẫn đến giảm đường phân và oxy hóa glucose, đồng thời tăng quá trình oxy hóa axit béo. Quá trình oxy hóa axit béo không chỉ được tăng cường bởi nồng độ axit béo mà còn do sự kích hoạt thụ thể PPARα (peroxysomal proliferator activated receptor alfa). Sự oxy hóa axit béo đòi hỏi cần nhiều oxy hơn chuyển hóa glucose. Sự đường phân hiếu khí sẽ chuyển thành đường phân kỵ khí kết quả là tích trữ ngày càng nhiều lactat và axit chuyển hóa. Các chất độc trung gian này sẽ làm suy yếu sự hằng định nội môi ion canxi và sự co bóp cơ tim. Tăng chuyên chở axit béo tự do cũng làm tích trữ lipit trong tế nào cơ tim.
3.2. Sự stress oxy hóa
Sự oxy hóa tái hoạt loài (reactive oxygen species - ROS) gây ra sự oxy hóa các phân tử sinh học gồm protein và axit nucleic. Sự tăng quá mức các sản phẩm ROS liên quan đến phì đại, xơ hóa, rối loạn chức năng co bóp của cơ tim và suy tim [51]. Một nghiên cứu tiến hành ở chuột đã cung cấp bằng chứng mạnh mẽ rằng Nox4 là một nguồn ROS quan trọng trong tâm thất trái, và  Nox4 góp phần cho bệnh cơ tim ở giai đoạn đầu của đái tháo đường type 1 [52]. Hệ thống thu dọn ROS đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc làm giảm rối loạn chức năng của tim do đái tháo đường, tăng nồng độ metallothionein, catalase và superoxide dismutase mangan, giảm suy thoái chức năng cơ tim và cải thiện chức năng tâm trương ở động vật [52].
3.3. Rối loạn cân bằng canxi
Kiểm soát chính xác hằng định nội môi canxi là trung tâm của sự điều hòa chức năng và tăng trưởng của cơ tim [10]. Trong mỗi nhịp tim, canxi được đưa vào cơ tim thông qua kênh canxi L-type. Khi đó nồng độ canxi nội bào tăng lên làm phóng thích canxi từ hệ thống lưới nội cơ tương vào trong nội bào qua kênh bài tiết canxi (còn gọi là ryanodine receptor channels). Ion canxi sẽ tương tác với các troponin gây co cơ tim. Sau đó, hệ thống lưới nội cơ tương sẽ bắt lấy canxi thông qua kênh SERCA (sarco/endoplasmic reticulum Ca2+ -ATPase) làm giảm nồng độ canxi trong nội bào và gây giãn cơ tim.
Hằng định nội môi canxi thay đổi khi có sự giảm hoạt động của các kênh canxi: SERCA, Na/Ca exchanger và Ca ATPase. Một nghiên cứu cho thấy các con chuột bị đái tháo đường type 1 và type 2 đều giảm biểu hiện của thụ thể ryanodine và giảm sự thoát canxi từ bào tương cơ tim [43]. Sự giảm biểu hiện của kênh SERCA làm suy giảm sự thư giãn và tăng thời gian điện thế động, điều này có tương quan với kết quả lâm sàng của rối loạn chức năng tâm trương [53].

3.4. Tái cấu trúc chất nền ngoại bào
            Tăng đường huyết dường như là yếu tố trung tâm trong sinh bệnh học của bệnh cơ tim đái tháo đường. Tiếp xúc kéo dài với glucose làm cho protein hình thành chuỗi phản ứng phi enzyme, để rồi hình thành sản phẩm cuối cùng là AGEs (advanced glycosylation end products). Các AGEs là một dạng ổn định của collagen liên kết ngang và có lẽ chúng chịu trách nhiệm về độ cứng của động mạch và cơ tim, rối loạn chức năng nội mô và hình thành mảng xơ vữa động mạch. Mối tương quan dương tính giữa nồng độ AGEs huyết thanh với thời gian giãn đồng thể tích tâm thất, độ cứng động mạch và độ dày nội mạc động mạch cảnh đã được ghi nhận ở bệnh nhân đái tháo đường [9], [39], [56].
            Chiến lược để ngăn chặn sự hình thành AGEs, kích hoạt các thụ AGEs hoặc phá vỡ các AGEs-protein liên kết chéo đã được đề xuất như là liệu pháp tiềm năng để làm nhẹ bớt những ảnh hưởng gây bệnh của AGEs trên chức năng cơ tim trong đái tháo đường. Điều trị bằng aminoguanidine, một chất ức chế sự hình thành AGE giúp ngăn ngừa sự tiến triển của rối loạn chức năng tâm thất ở chuột mắc đái tháo đường [55].
3.5. Rối loạn chức năng ty thể
Rối loạn chức năng ty thể góp phần vào sự tiến triển của đái tháo đường và bệnh cơ tim đái tháo đường [20]. Thay đổi hoặc mất cân bằng trong chuyển hóa năng lượng trong ty thể cơ tim đã được ghi nhận là yếu tố quan trọng trong sinh bệnh học của bệnh cơ tim đái tháo đường [13]. Dù thế nào, cơ chế rối loạn chức năng ty thể vào bệnh sinh đái tháo đường vẫn chưa hiểu rõ. Một giả định về sản sinh ROS ở ty thể liên quan đến tăng đường huyết đã được đưa ra. Tăng sản sinh ROS trong quá trình oxy hóa axit béo gây ra sự tích tụ của ROS và stress oxy hóa, hậu quả là tổn thương tế bào [4], [11], [19], [28]. Trong nghiên cứu của Nakamura và đồng sự đã báo cáo rằng p53 góp phần rối loạn chức năng tim mạch trong bệnh đái thái đường bằng cách thúc đẩy tiêu thụ oxy của ty thể, sản xuất ROS, và tích tụ lipid [41].
4. Chẩn đoán bệnh cơ tim đái tháo đường
Hai bước quan trọng trong chẩn đoán bệnh cơ tim đái tháo đường đó là: phát hiện các bất thường của cơ tim và loại trừ các nguyên nhân khác gây bệnh cơ tim. Một thách thức quan trọng trong việc chẩn đoán bệnh cơ tim đái tháo đường đó là thiếu các hình ảnh mô học cơ tim. Việc sinh thiết cơ tim không được chỉ định thường quy bởi tính chất xâm lấn của xét nghiệm này, trừ khi đang nghi ngờ và cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh lý cơ tim khác như: bệnh cơ tim phì đại, bệnh cơ tim thâm nhiễm. Tuy nhiên nếu có sự xuất hiện xơ hóa cơ tim hay lắng đọng collagen cơ tim thì đó là những đặc trưng của bệnh cơ tim đái tháo đường. Ngoài ra, kính hiển vi điện tử có thể phát hiện các bất thường ở ty thể, lắng đọng axit béo và cả phì đại cơ tim.
Chẩn đoán bệnh cơ tim đái tháo đường hiện tại chủ yếu dựa vào các kỹ thuật không xâm lấn để chứng minh rối loạn chức năng cơ tim kèm theo các biểu hiện lâm sàng. Ở các bệnh nhân có biểu hiện suy tim rõ rệt, các đặc điểm về rối loạn chức năng và cấu trúc cơ tim trên siêu âm thường cũng sẽ biểu hiện. Tuy nhiên khi triệu chứng không rõ rệt (giai đoạn B của suy tim mạn tính theo Trường Môn Tim Mạch Hoa Kỳ/Hội Tim Hoa Kỳ - ACC/AHA) thì một chẩn đoán hình ảnh học nên được thực hiện.
4.1. Siêu âm tim
            Siêu âm tim là một kỹ thuật tương đối rẻ tiền để đánh giá cấu trúc và chức năng tim. Siêu âm Doppler qua van hai lá thường dùng để đánh giá chức năng tâm trương thất trái. Siêu âm Doppler cũng đóng góp một phần quan trọng cho thấy sự xuất hiện độc lập của bệnh cơ tim đái tháo đường [25]. Rối loạn chức năng tâm trương thất trái (đánh giá bằng siêu âm doppler qua van hai lá) ghi nhận được 47-75% ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 không triệu chứng và đã kiểm soát tốt đường huyết với huyết áp bình thường [12], [44], [57]. Chức năng tâm thu thất trái cũng suy giảm do đái tháo đường, mặc dù tỷ lệ có thể thấp hơn so với các rối loạn chức năng tâm trương. Trong một vài trường hợp, nhưng không phải tất cả các nghiên cứu trong y văn, bệnh nhân đái tháo đường có chỉ số phân suất co rút (fractional shortening) thất trái và co rút giữa thành (midwall shortening) thấp hơn so với những người dung nạp glucose bình thường [8], [16], [30].
Dù sao, siêu âm thông thường cũng có hạn chế về độ nhạy và độ chuyên biệt so với siêu âm Doppler mô (Tissue Doppler imaging) [40], một kỹ thuật mới hơn có thể đo được vận tốc của mô cơ tim trong suốt chu chuyển tim và có thể đánh giá chức năng tâm thu và tâm trương cơ tim toàn bộ hoặc từng vùng. Các tác giả Kosmala [37] và Di Bonito [18] đã báo cáo rằng E' thì thấp hơn đáng kể ở những bệnh nhân đái tháo đường mà không tăng huyết áp so với người bình thường.
4.2 Dấu ấn sinh học ở tim
Sự thay đổi nồng độ các dấu ấn sinh học ở tim có thể phản ánh sự trao đổi chất của cơ tim và cấu trúc cơ tim. Mối tương quan giữa biến đổi protein chất nền ngoại bào và sự tiến triển tái cấu trúc ở tim đã được ghi nhận [15]. Metalloproteinase Matrix (MMPs) là enzym phân hủy chất nền ngoại bào, tăng chuyển hóa chất nền và thay đổi biểu hiện một số micro-Ribonucleic Acids (mi-RNAs) dẫn đến rối loạn chức năng co bóp cơ tim [14].
Aminoterminal propeptide type III trong huyết thanh được cho là một chỉ dấu sớm của rối loạn chức năng tâm thu ở các đối tượng béo phì có đề kháng insulin [45]. Vai trò của BNP cũng đã được bàn luận, ở bệnh nhân đái tháo đường không có triệu chứng suy tim với nồng độ BNP >90 pg/ml có giá trị tiên đoán dương đến 96% cho rối loạn chức năng thất trái khi đánh giá bằng siêu âm tim [21].
Troponin tim (T, N và I) là những phân tử được phóng thích vào máu từ các cơ tim bị tổn thương do thiếu máu cục bộ hoặc bệnh lý viêm. Nồng độ troponin T cao đã được tìm thấy ở những đứa trẻ có rối loạn chức năng tim và bệnh cơ tim sinh ra từ các bà mẹ bị đái tháo đường [50]. Tuy nhiên, vai trò của troponin trong đánh giá bệnh cơ tim đái tháo đường ở người trưởng thành vẫn chưa rõ ràng.
miRNA là các phân tử RNA nhỏ không mã hóa mà có vai trò điều chỉnh biểu hiện gen của tế bào. Các rối loạn điều hòa của miRNA có liên quan đến bệnh đái tháo đường và các biến chứng của nó. Mức độ thay đổi của miRNA đã được quan sát trong tế bào cơ tim [24]. Những phân tử mới này có lẽ là công cụ chẩn đoán và tiên lượng trong tương lai đối với bệnh nhân bệnh cơ tim đái tháo đường.
4.3. Chụp cộng hưởng từ
Chụp cộng hưởng từ (MRI) gần đây đã nổi lên như một công cụ hình ảnh rất tốt cho việc chẩn đoán các rối loạn về cấu trúc và chức năng của cơ tim [27]. MRI tim tăng gadolinium hữu ích để dự đoán các biến cố tim chính, chẳng hạn như nhồi máu cơ tim cấp tính, sự phát triển suy tim và rối loạn nhịp thất ở bệnh nhân đái tháo đường không có tiền sử bệnh tim thiếu máu cục bộ [38]. MRI tim cũng rất hữu ích để phát hiện rối loạn chức năng tâm trương và thâm nhiễm mỡ cơ tim được ghi nhận ở các bệnh nhân có đái tháo đường type 2 so với nhóm đối chứng [46].
5. Dự phòng và điều trị
Tăng đường huyết được coi là yếu tố chính cho sự phát triển của bệnh cơ tim đái tháo đường. Tăng đường huyết tạo ra sản phẩm AGEs, tích tụ collagen ở tim và stress oxy hóa. Một nghiên cứu của Kiencke và công sự [35] tiến hành ở người trưởng thành mắc bệnh đái tháo đường mà không có bất kỳ bằng chứng của bệnh tim thực thể, tiết lộ rằng bệnh cơ tim đái tháo đường đã xuất hiện ở 48% số bệnh [35]. Số lượng AGEs tích lũy trong cơ tim đã được tìm thấy là có liên quan với thời gian mắc bệnh. Trong các nghiên cứu đoàn hệ quan sát và phân tích hồi cứu ở các bệnh nhân đăng ký, sử dụng metformin có liên quan với tỷ lệ thấp mắc suy tim so với phác đồ kiểm soát đường huyết khác [22]. Hơn nữa, kết cục lâm sàng ở bệnh nhân đái tháo đường có suy tim tốt hơn ở nhóm điều trị bằng metformin [1], [5]. Ngược lại với metformin, thiazolidinedione (TZD) đã được ghi nhận làm tăng tỷ lệ suy tim trong bệnh đái tháo đường so với sulfonylurea. Kết quả từ hai thử nghiệm PROactive và RECORD hỗ trợ các khuyến cáo từ Hôi Tim Hoa Kỳ và Hội Đái Tháo Đường Hoa Kỳ giúp  các bác sĩ lâm sàng đánh giá nguy cơ từng bệnh nhân trước khi bắt đầu dùng TZDs và ngưng sử dụng TZD ở bệnh nhân suy tim có triệu chứng [32].
Những lợi ích của ức chế hoạt động của các hormon thần kinh bởi các thuốc  ức chế men chuyển, chẹn thụ thể angiotensin và thuốc chẹn bêta đã được chứng minh trong bệnh cơ tim đái tháo đường [2], [3], [48]. Một phân tích gộp gồm 28 thử nghiệm nhóm beta-blockers cho thấy carvedilol, metoprolol, bisoprolol đã làm giảm tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân và đột tử ở những bệnh nhân suy tim. Metoprolol là nổi bật trong việc giảm đột tử, so với carvedilol hoặc bisoprolol [29].


Tài liệu tham khảo