Tuesday, February 3, 2015

KAPLAN ĐIỀU TRỊ TĂNG HUYẾT ÁP TRONG LÂM SÀNG LẦN THỨ 11 2015

Nói đến sách tăng huyết áp bác sĩ sẽ nghĩ ngay đến Kaplan
Kaplan Tăng huyết áp lâm sàng cung cấp các khuyến nghị cập nhật, thực tế và dựa trên chứng cớ cho việc phòng ngừa và điều trị tất cả các dạng tăng huyết áp. 




+ Cập nhật toàn diện để mang đến cho bạn kiến thức tiên tiến nhất về sinh bệnh học của tăng huyết áp và nhiều khu vực đang phát triển nhanh chóng khác.
+ Vô số phác đồ và biểu đồ, sơ đồ tạo điều kiện cho việc ra quyết định lâm sàng
+ Phong cách dễ hiểu, súc tích và thân thiện với người đọc giúp bạn dễ dàng tìm kiếm thông tin và áp dụng thông tin mình cần
+ Truy cập toàn bộ văn bản trực tuyến Pub Med với nhiều tham khảo hữu ích





Link tải
https://drive.google.com/file/d/0B_aQ4t-kM1coZGVyRll0Uno5bjQ/view?usp=sharing

Saturday, January 31, 2015

PROKINETIC AGENTS CÁC THUỐC HỖ TRỢ NHU ĐỘNG ĐƯỜNG TIÊU HOÁ


Lịch sử và các đặc điểm phân biệt: Các thuốc hỗ trợ nhu động làm tǎng sức co bóp của cơ trơn đường tiêu hóa và thúc đẩy lưu thông các chất chứa trong đường tiêu hóa. Thuốc hỗ trợ nhu động được dùng để điều trị các rối loạn nhu động dạ dày ruột như bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD), chứng liệt nhẹ dạ dày do đái đường hoặc liệt ruột sau mổ, và, tuỳ theo từng thuốc, có thể dùng làm thuốc bổ trợ để đặt ống vào ruột non hoặc chụp X quang đường tiêu hóa. Trong điều trị bệnh trào ngược dạ dày thực quản, các thuốc hỗ trợ nhu động như metoclopramid và cisaprid được xem là có hiệu quả ngang với chất chẹn H2 trong xử trí triệu chứng và làm lành vết loét nhanh chóng, nhưng kém liệu pháp ức chế bơm proton (PPI).
Đôi khi cisaprid và metoclopramid được dùng làm thuốc bổ trợ cho liệu pháp giảm tiết acid như ức chế bơm proton (PPI) hoặc chẹn H2 trong một số ít trường hợp GERD kháng điều trị.

Bethanechol và dexpanthenol là những thuốc cũ được FDA cấp phép nǎm 1948. Bethanechol, một cholin ester muscarin, được tổng hợp lần đầu tiên vào những nǎm 1930. Ban đầu thuốc được dùng cho bệnh nhân hậu phẫu để điều trị bí đái và kích thích nhu động dạ dày ruột. Đây là thuốc đầu tiên được dùng điều trị giảm nhu động dạ dày ruột, nhưng hiệu quả của thuốc khi dùng cho mục đích này chưa được khẳng định. Mặc dù hiện nay thuốc vẫn được dùng để điều trị bí đái, song tác dụng phụ và tỷ lệ đáp ứng chung kém trong điều trị GERD và các chứng liệt ruột khác đã hạn chế việc sử dụng bethanechol trên lâm sàng để điều trị những chứng bệnh này. Dexpathenol, một dẫn xuất của acid panthothenic, hiện có ở dạng đơn thuần và phối hợp với cholin (một chất chủ vận tiết acetylcholin). Trước kia, dexpanthenol thường được dùng sau phẫu thuật để phòng ngừa tắc ruột. Tuy nhiên, tác dụng hỗ trợ nhu động của dexpanthenol chưa nhận được sự ủng hộ trong các thử nghiệm lâm sàng đối chứng và thuốc bị coi là đã lỗi thời.
Metoclopramid, được FDA cấp phép nǎm 1979, là thuốc hỗ trợ nhu động thế hệ 1. Thuốc có quan hệ về mặt hóa học với procainamid và tên gốc được viết gọn từ tên hóa học "methoxychloroprocainamid". Metoclopramid được FDA phê chuẩn nhiều chỉ định nhất so với tất các các thuốc hỗ trợ nhu động, bao gồm chứng liệt dạ dày nhẹ do đái đường, bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD), chụp X quang dạ dày ruột, đặt ống xông vào ruột non, nôn và buồn nôn. Những chỉ định khác ngoài đường tiêu hóa bao gồm điều trị chứng nấc dai dẳng và điều trị buồn nôn do say tàu xe, chóng mặt hoặc đau nửa đầu. Những cách sử dụng khác chưa được phê chuẩn không liên quan đến hoạt tính của thuốc trên đường tiêu hóa bao gồm thúc đẩy tiết sữa sau đẻ. Nhược điểm của metoclopramid là những phản ứng phụ của thuốc do tác dụng chống tiết dopamin ở hệ thần kinh trung ương.
Cisaprid được FDA cấp phép tháng 6/1993. Mặc dù có quan hệ về mặt hoá học với metoclopramid, song cisaprid không có tác dụng chống tiết dopamin và do đó có mục tác dụng phụ khác với metoclopramid. Cisaprid được FDA cho phép dùng trong GERD, và được dùng "ngoài hướng dẫn" để điều trị chứng liệt nhẹ dạ dày do đái đường. Hiệu quả của cisaprid trong điều trị bệnh trào ngược dạ dày thực quản tương đương với chất chẹn H2. Phải dùng cisaprid đúng theo chỉ dẫn trong đơn để đảm bảo việc điều trị an toàn và hiệu quả.
Từ khi Mỹ cho phép dùng cisaprid nǎm 1993, đã có một số trường hợp bị tác dụng phụ tim mạch nghiêm trọng, thậm chí tử vong ở người cũng đang dùng một số thuốc chống chỉ định hoặc có một số bệnh lý đặc biệt. Có nhiều chống chỉ định dùng cisaprid. Do khả nǎng bị tai biến tim nặng, chỉ nên dùng thuốc trong những trường hợp các biện pháp điều trị khác không đem lại đáp ứng mong muốn. Từ tháng 5/2000, nhà sản xuất cisaprid sẽ chỉ cung cấp thuốc thông qua thể thức tiếp cận hạn chế cho những bệnh nhân không đáp ứng với các thuốc khác. Sau tháng 6/2000, thuốc sẽ chỉ được bán cho bệnh nhân thông qua các thầy thuốc đã đǎng ký phù hợp với thể thức này và có tiêu chuẩn pháp lý rõ ràng. Ba thể thức đang được nghiên cứu bao gồm: a) Người lớn: điều trị GERD dai dẳng, chứng liệt dạ dày nhẹ, giả tắc ruột, và chứng táo bón nặng; b) Trẻ em: điều trị GERD dai dẳng (gây chậm lớn, hen, nhịp tim chậm, cơn ngừng thở hoặc các chứng bệnh nặng khác) hoặc giả tắc ruột; và c) Trẻ sơ sinh: không bú được. Từ tháng 8/2000 cisapride không còn được bán ở các nhà thuốc.
Erythromycin mô phỏng một chất tự nhiên trong đường tiêu hóa là motilin. Có thể dùng erythromycin liều thấp (125-150mg uống hoặc tiêm TM 3 lần/ngày) để kích thích thụ thể motilin. Mặc dù chưa có những thử nghiệm đối chứng đáng tin cậy để chứng minh hiệu quả của erythromycin trong điều trị chứng liệt nhẹ dạ dày hậu phẫu hoặc do đái đường, thuốc này vẫn tiếp tục được dùng trên lâm sàng cho những trường hợp bệnh dai dẳng. Chưa có thử nghiệm dài ngày hoặc so sánh với các thuốc hỗ trợ nhu động khác. Erythromycin chưa được FDA cho phép dùng điều trị rối loạn nhu động dạ dày ruột. Giống như cisaprid, đôi khi erythromycin có thể làm khoảng QT kéo dài hoặc gây loạn nhịp tim nặng, nhất là khi phối hợp với một số thuốc có tương tác.
Các thuốc hỗ trợ nhu động đang được nghiên cứu bao gồm domperidon, có hoạt tính tương tự metoclopramid. Tuy nhiên, không như metoclopramid, domperidon là chất đối kháng thụ thể dopamin-2 ngoại vi không dễ dàng vào được hệ thần kinh trung ương. Từ nǎm 1978 domperidon đã được bán rộng rãi trên khắp thế giới, trừ nước Mỹ. Trong các thử nghiệm lâm sàng, domperidon có ích trong điều trị bệnh dạ dày đái đường, làm giảm triệu chứng khó tiêu hoặc GERD, ngǎn ngừa nôn và buồn nôn do hóa trị liệu, và ngǎn ngừa tác dụng phụ gây nôn của các thuốc chống Parkinson.
EM574 (N-demethyl-N-issopropyl-8, 9-anhydroerythromycin A 6,9-hemiacetal), một dẫn xuất erythromycin đang được nghiên cứu và là một chất chủ vận thụ thể motilin mạnh, hiện đang được công ty Osaka Pharmaceutical (Nhật) thử nghiệm trên lâm sàng làm thuốc hỗ trợ nhu động. Cho đến nay, kết quả thí nghiệm tiền lâm sàng (nghiên cứu trên động vật) cũng như một số nghiên cứu hạn chế trên người tình nguyện khỏe mạnh đã được công bố. EM574 thúc đẩy làm rỗng dạ dày theo kiểu phụ thuộc liều.
Cơ chế tác dụng: Các thuốc hỗ trợ nhu động có cơ chế tác dụng khác nhau; các thuốc khác nhau tác dụng lên những vị trí giải phẫu khác nhau trong điều hòa quá trình làm rỗng dạ dày và/hoặc ruột non.
Bethanechol: Bethanechol là một chất chủ vận tiết acetylcholin, tác dụng trực tiếp trên thụ thể muscarin, với rất ít hoạt tính tiết nicotin. Kích thích muscarin làm tǎng trương lực và nhu động dạ dày ruột, tǎng nhu động thực quản và tǎng áp lực khi nghỉ của cơ vòng thực quản dưới. Hoạt tính tiết acetylcholin là không đặc hiệu, làm tǎng tiết ở tuyến tuỵ và dạ dày. Bethanechol cũng làm giảm dung tích bàng quang, tǎng nhu động của niệu quản và tǎng co bóp cơ mu bàng quang. Các hoạt tính tiết muscarin điển hình khác thường khó xảy ra khi dùng đường uống hoặc tiêm dưới da, nhưng dùng đường tĩnh mạch hoặc tiêm bắp có thể gây những tác dụng tiết acetylcholin không đặc hiệu, như nhịp tim chậm, co đồng tử, chảy nước mắt, tiết nước bọt, ra mồ hôi, tǎng tiết và co thắt phế quản.
Dexpanthenol: Dexpathenol dễ dàng chuyển thành acid pantothenic, một vitamin B phức hợp tan trong nước và là tiền chất của coenzym A. Vì coenzym A rất cần cho phản ứng acetyl hóa sinh ra acetylcholin, nên người ta cho rằng dùng dexpanthenol sẽ làm tǎng sản sinh acetylcholin, do đó làm tǎng tác dụng phó giao cảm duy trì hoạt động bình thường của đường tiêu hóa. Tuy nhiên, những tác dụng này chưa được chứng minh trên lâm sàng. Ngoài việc gây rối loạn tiêu hóa nhẹ khi dùng đường uống, người ta chưa biết về tác dụng dược lý khi bổ sung quá nhiều acid pantothenic.
Metoclopramid: Metoclopramid là một chất chống tiết dopamin có tác dụng trung ương và ở ruột, với hoạt tính chủ vận acetylcholin ruột gián tiếp. Tác dụng dược lý phức tạp này dẫn đến làm tǎng nhu động thực quản, tǎng áp lực cơ vòng thực quản dưới, tǎng co bóp hang vị; cơ thắt tâm vị và trương lực tá tràng giãn. Những tác dụng này phối hợp với nhau để đẩy nhanh tốc độ làm rỗng dạ dày và lưu thông ruột non từ tá tràng tới van hồi tràng. Metoclopramid ít tác động tới tiết dịch dạ dày hoặc nhu động đại tràng. Metoclopramid đối kháng thụ thể dopamin. Trong khi người ta đã xác định được thụ thể dopamin ở một số phần của đường tiêu hóa, thì vai trò của chúng trong việc duy trì chức nǎng dạ dày ruột lại chưa được rõ. ở hệ thần kinh trung ương, metoclopramid phong bế thụ thể dopamin, đặc hiệu là phân nhóm D2, ở vùng khởi phát thụ thể hóa học, dẫn đến tác dụng chống nôn và góp phần làm giảm triệu chứng các rối loạn liệt ruột. ức chế tiết dopamin trung ương cũng có thể gây buồn ngủ và tác dụng ngoại tháp. Metoclopramid ức chế thụ thể dopamin ở tuyến yên và vùng dưới đồi làm tǎng bài tiết sữa.
Cisaprid: Cisaprid có cấu trúc tương tự metoclopramid; cisaprid làm tǎng giải phóng acetylcholin gián tiếp và chọn lọc từ các tế bào thần kinh hậu hạch ở đám rối áo cơ ruột. Cisaprid cũng tương tác với thụ thể serotonin 5-HT4; kích thích thụ thể 5HT4 góp phần giải phóng acetylcholin ở đám rối áo cơ ruột. Vai trò và ý nghĩa lâm sàng của cơ chế serotonin này vẫn cần phải được xác định. Cisaprid không biểu hiện các tác dụng giả cholin khác. Tác dụng trên đường tiêu hóa tương tự metoclopramid hoặc domperidon, ngoài ra cisaprid còn làm tǎng nhu động đại tràng, trương lực cơ thắt hậu môn và tǎng số lần đi ngoài. Không như metoclopramid, cisaprid không đối kháng thụ thể dopamin, do đó không có tác dụng chống nôn, không gây cường prolactin huyết cũng như tác dụng phụ ngoại tháp.
Domperidon: Domperidon là chất đối kháng dopamin ngoại vi có chọn lọc; tác dụng trên đường tiêu hóa và chống nôn tương tự metoclopramid. Vì domperidon không dễ dàng vượt qua hàng rào máu não, nên tác dụng chống tiết dopamin trung ương của thuốc kém metoclopramin, điều này giúp hạn chế tác dụng phụ trên thần kinh trung ương.
Erythromycin và các chất tương tự erythromycin: là một kháng sinh nhóm macrolid, không tác động đến thụ thể dopamin cũng như không làm tǎng tiết acetylcholin. Erythromycin bắt chước tác dụng của motilin (một polypeptid dạ dày ruột) đối với nhu động dạ dày ruột. Motilin đóng một vai trò quan trọng trong co bóp nhu động của đường tiêu hóa ở người, nhưng cơ chế chính xác còn chưa rõ. Erythromycin ức chế sự gắn kết của motilin vào thụ thể ở cơ trơn đường tiêu hóa và tác dụng như một chất chủ vận motilin. Erythromycin đẩy nhanh tốc độ làm rỗng dạ dày và rút ngắn thời gian lưu thông miệng - manh tràng. Một số chất chủ vận motilin đang được triển khai; việc tổng hợp chúng sẽ dẫn đến những hợp chất tǎng hoạt tính "giả motilin" cùng với giảm hoặc không có tác dụng kháng khuẩn.
Các phản ứng có hại: Tác dụng phụ tiêu hóa rất hay gặp khi dùng thuốc hỗ trợ nhu động. Bethanechol gây tǎng tiết nước bọt, buồn nôn và ỉa chảy; chủ yếu do tác dụng tiết acetylcholin của thuốc. Tiêu chảy có thể xảy ra khi dùng metoclopramid hoặc domperidon, nhưng hiếm gặp buồn nôn và nôn vì những thuốc này có tác dụng chống nôn. Cisaprid gây chuột rút và ỉa chảy; ỉa chảy là hậu quả của tǎng nhu động đại tràng. Erythromycin chủ yếu gây các tác dụng phụ tiêu hóa gồm buồn nôn, nôn và đau thắt bụng.
Hạn chế chủ yếu của liệu pháp metoclopramid là các tác dụng phụ trên thần kinh trung ương hoặc liên quan đến nội tiết. Metoclopramid vào được thần kinh trung ương và thường gây lơ mơ, mất ngủ và lo âu. Các triệu chứng ngoại tháp (EPS) do đối kháng dopamin trung ương là mối lo ngại chính. Triệu chứng bao gồm chứng nằm ngồi không yên, rối loạn trương lực cơ, và cuối cùng bệnh nhân có thể bị các dấu hiệu của loạn vận động chậm. Một tác dụng khác do metoclopramid gây ra do đối kháng dopamin là tǎng nồng độ prolactin. Cường prolactin huyết có thể gây to và cương vú, ra sữa và kinh nguyệt không đều. Domperidon, một chất đối kháng dopamin ngoại vi, thâm nhập hạn chế vào hệ thần kinh trung và do đó ít gây triệu chứng thần kinh trung ương.
Cisaprid, bethanechol, erythromycin và các chất tương tự erythromycin chỉ gây những tác dụng phụ thần kinh nhỏ như đau đầu hoặc chóng mặt.Bethanechol đôi khi có thể gây nhìn lóa hoặc các tác dụng tiết acetylcholin toàn thân khác, nhưng ít gặp khi dùng đường uống. Dexpanthenol tiêm đôi khi gây phản ứng dị ứng dạng phản vệ.

Tác dụng phụ nghiêm trọng nhất liên quan tới liệu pháp erythromycin và cisaprid là tác dụng tim mạch, hậu quả của kéo dài khoảng QT. Tránh dùng đồng thời những thuốc làm tǎng nguy cơ thay đổi điện tâm đồ, loạn nhịp thất, xoắn đỉnh hoặc tử vong là những tai biến chủ yếu của cả erythromycin và cisaprid. Các yếu tố nguy cơ dẫn đến tai biến do cisaprid gồm bệnh tim, rối loạn điện giải và suy thận. Thầy thuốc cần theo đúng tất cả những lưu ý thận trọng cần thiết để đảm bảo kê đơn cisaprid an toàn.

Saturday, January 24, 2015

HARRISON CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM CASE LÂM SÀNG - ĐÁP ÁN VÀ GIẢI THÍCH

QUYỂN HARRISON TỰ ĐÁNH GIÁ bao gồm những câu hỏi kiến thức sinh lý bệnh và case lâm sàng, đáp án có giải thích và chỉ điểm cụ thể trong quyển Harrison. Chắc chắn một điều quyển sách rất bổ ích để vượt qua các kỳ thi chuyên khoa nội cho các đối tượng: sinh viên, nội trú, cao học, chuyên khoa I, chuyên khoa II.


Link tải https://drive.google.com/file/d/0B_aQ4t-kM1coT2pPZDE0YTU4Vm8/view?usp=sharing



Tuesday, January 20, 2015

FERRI'S ATLAS NỘI KHOA LÂM SÀNG - HÌNH ẢNH PHONG PHÚ, CHÂN THẬT



Để nhớ sâu sắc một triệu chứng, một dấu hiệu trên lâm sàng hay cận lâm sàng không gì bằng tận mắt nhìn thấy một lần. Tuy nhiên, tình trạng quá tải sinh viên ở các bệnh viện khiến sinh viên còn nhiều hơn cả bệnh nhân cộng với nhân viên y tế!

Quyển atlas này là một bộ sưu tập gần 4000 hình ảnh các triệu chứng, hình ảnh học (Xquang, CT, MRI, siêu âm), nội soi, giải phẫu bệnh... Ngoài ra, các bài giảng bệnh học viết theo phong cách gạch đầu dòng rất dễ tra cứu từ nguyên nhân, cơ chế đến chẩn đoán và điều trị.  Thật sự đây là một quyển atlas rất bổ ích và cần thiết cho các sinh viên y đa khoa cũng như bác sĩ đa khoa. 

Hướng dẫn: sau khi tải 2 file dưới đây dùng phần mềm này https://drive.google.com/file/d/0B_aQ4t-kM1coUFNENm9EODBTeGc/view?usp=sharing
 để nối 2 file lại.

Link tải

https://drive.google.com/file/d/0B_aQ4t-kM1cod0hiaFFtQ0swSnM/view?usp=sharing
https://drive.google.com/file/d/0B_aQ4t-kM1codFVGSWUybmZUd1k/view?usp=sharing

Monday, January 19, 2015

GIÁO SƯ PHẠM SONG - CHUYÊN GIA ĐẦU NGÀNH TRUYỀN NHIỄM

Giáo sư, Viện sĩ Phạm Song là một trong số chuyên gia y học hàng đầu của nước ta, lại là người quản lý đầu ngành, suốt đời say mê nghiên cứu thực tiễn y học và chiến lược y tế. Bước vào tuổi 78 nhưng niềm say mê đó không hề giảm sút trong nhiệm vụ mà ông rất tự hào là Chủ tịch Tổng hội Y học Việt Nam.

Ông vào Đảng năm 19 tuổi (1/4/1950) và nay đã 59 tuổi Đảng. Ông là sinh viên Y khoa khóa 1952, đã tích cực tham gia phục vụ bộ đội và nhân dân trong kháng chiến và những ngày hòa bình lập lại. Ông trở lại Trường đại học Y khoa hoàn thành tốt nghiệp bác sĩ năm 1956 chuyên khoa tim mạch đạt loại ưu, điểm 9 cho cả luận án lẫn thi lâm sàng. GS. Đặng Văn Chung nói thân mật: "Bớt đi 1 điểm cho khỏi kiêu căng, vì kiêu căng tự phụ thì chẳng làm được gì nhiều, khi chọn ngành y".

Trong các khóa đào tạo sau đại học, Ông luôn được điểm 10 với lời khen ngợi của Hội đồng giám khảo như: khi thi 4 chứng chỉ để làm phó tiến sĩ ở Rumanie hay khi thi tốt nghiệp lớp miễn dịch học tại Lausane Thụy Sĩ của Tổ chức Y tế Thế giới, ông đạt 297 điểm trên tổng 300 điểm. Ông Chủ tịch của Hội đồng nói: "Bớt 3 điểm để nhớ y học vô cùng rộng lớn không bao giờ biết hết".
Được đào tạo sau Đại học ở Rumanie, Hà Lan, Thụy Sĩ, ông được được cử làm chủ nhiệm khoa bệnh nhiễm trùng của Bệnh viện Hữu nghị Việt Xô 18 năm (1966-1984). Năm 1981 ông được đề bạt lên làm Phó giám đốc và năm 1982 làm giám đốc. Ông là người đầu tiên thực hiện kỹ thuật soi ổ bụng và sinh thiết gan cũng như soi ruột già ống mềm tại bệnh viện phục vụ việc chữa bệnh cho cán bộ trung cao cấp và lão thành cách mạng. Ông luôn kiên trì tự nâng cao năng lực, nghề nghiệp, và tích cực tham gia giảng dạy, làm nghiên cứu khoa học về các triệu chứng báo hiệu ung thư gan và ung thư phổi và các kết quả điều trị được GS. Đặng Văn Chung đánh giá cao.
Bộ trưởng Bộ Y tế nhận ra năng lực chuyên môn và khả năng quản lý của ông, khi ông đề xuất chương trình hành động 10 điểm đưa Bệnh viện Việt Xô lên thành bệnh viện chính phủ, nên đã giới thiệu Ban Bí thư giao nhiệm vụ Thứ trưởng cho ông vào đầu năm 1984. Theo gương Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch hoạt động chính trị xã hội về y học y tế rất xuất sắc, nhưng vẫn dành thời gian tham gia tự chiếu, chụp Xquang phổi cho bệnh nhân. Là Thứ trưởng bận nhiều công việc, GS. Phạm Song vẫn kiêm Chủ nhiệm Bộ môn truyền nhiễm và đảm bảo trên 170 tiết giảng dạy mỗi năm tại Trường đại học Y Hà Nội. Khi thành lập Viện y học lâm sàng các bệnh nhiệt đới ông vẫn làm Viện trưởng. Hai chức vụ này với chức danh Bộ trưởng Bộ Y tế sau này đã giúp ông thực tế để quyết định đưa artemisinin làm thuốc hàng đầu điều trị sốt rét do Plasmodium Falciparum kháng thuốc.

Từ một bác sĩ chuyên khoa tim mạch trở thành một thầy thuốc giỏi - một giáo sư có những đóng góp quan trọng trong chuyên ngành truyền nhiễm, GS. Phạm Song luôn nhớ đến công lao đào tạo và bồi dưỡng của Bộ trưởng Y tế Phạm Ngọc Thạch. Ông kể: "Năm 1958 Bộ trưởng gọi ông lên gặp vào lúc 3 giờ chiều tại trụ sở Bộ Y tế ở Phan Huy Chú, cùng gặp mặt hồi đó có Vụ trưởng tổ chức Nguyễn Đức Thắng và Vụ trưởng Vụ chữa bệnh Nguyễn Văn Tín. Thấy mặt, Bộ trưởng nói ngay: "Trẻ quá có làm được việc không?". Hai vụ trưởng thưa: "Chúng tôi đã suy nghĩ và chọn cho anh người xuất sắc, kể cả chuyên môn và kinh nghiệm quản lý". Bộ trưởng nói luôn: "Thế thì được, bệnh nhiễm trùng hiện nay là bệnh hàng đầu của nước ta. Tôi cần 1 cán bộ trẻ sang làm ngành này đáp ứng trước mắt và lâu dài. Anh nghĩ sao?". Tôi nói tôi không chuẩn bị làm truyền nhiễm, nên khi đi học không học nhiều về vi khuẩn học và virut học. Bộ trưởng bảo: "Chưa học thì tôi cho anh đi học và làm khoa học là một trong những công việc tốt nhất mà Đảng giao". Thế là sau đó 1 tháng ông chuyển sang khoa truyền nhiễm kiêm phụ trách công tác y vụ của Bệnh viện. Năm 1960 Bộ trưởng cho ông đi học ở Rumanie với 1 năm rưỡi để học virut học tại Viện quốc gia virut học và 6 tháng học về vi khuẩn tại viện Cantacusino nổi tiếng thế giới. Sau này ông lại được tu nghiệp ở Hà Lan về nhiễm trùng gan, tổ chức học về gan, rồi miễn dịch học 4 tháng tại Lausane Thụy Sĩ.
Điều mà ông tâm đắc nhất trong hoạt động khoa học y tế là quyết tâm đưa Artemisin vào điều trị sốt rét do Plasmodium Falciparum kháng thuốc. Ông đã cùng chuyên gia Viện Sốt rét đếm ký sinh trùng sốt rét P.F trên bệnh nhân sốt rét ác tính tại Viện y học lâm sàng nhiệt đới dưới tác dụng của artemisinin viên và nhận thấy ký sinh trùng thanh thải rất nhanh trên hai bệnh nhân. Ông đã báo cáo với Tổng bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Đảng và Chính phủ đã phát động phong trào di thực thanh hao hoa vàng từ Lạng Sơn về Hà Nam Ninh, Bình Lục và vườn thuốc Văn Điển. Chỉ sau 2 năm từ chỉ có 36kg artemisinin bột chúng ta đã có 3 tấn artemisinin bột cùng các dẫn xuất với nhiều dạng bào chế như tiêm tĩnh mạch, viên đặt hậu môn đủ dùng trong nước. Có thuốc artemisin cùng với việc tẩm màn permethrin chống muỗi đã khống chế được sốt rét, không có dịch lớn xẩy ra và rất hiếm khi có tử vong do sốt rét ác tính do Plasmodium Falciparum. Bộ Y tế đã hướng dẫn kỷ thuật sử dụng artemisinin và các dẫn xuất sản xuất trong nước để điều trị vào năm 1990 và sau đó 9 năm Tổ chức Y tế Thế giới đã công nhận chọn artemisinin là thuốc hàng đầu để điều trị sốt rét do Plasmodium falciparum. Sách "Khoa học công nghệ mới và phát triển con người trên thế giới" do UNDP xuất bản năm 2001 đã biểu dương "Việt Nam biết kết hợp kinh nghiệm truyền thống và hiện đại góp phần quan trọng giảm hẳn tỷ lệ tử vong sốt rét ác tính."
Việt Nam hiện là nước xuất khẩu artemisinin về dẫn xuất và cả nguyên liệu sang các nước châu Phi và châu Âu. Công trình có rất nhiều đơn vị khoa học và hàng chục bác sĩ tham gia đã được giải thưởng khoa học công nghệ Hồ Chí Minh 2000.
GS.VS. Phạm Song còn là đồng chủ biên với PGS.TS. Nguyễn Hữu Quỳnh chuyên gia về ngôn ngữ học, với sự cộng tác của 120 Giáo sư, Tiến sĩ y học nhiều thế hệ để biên soạn 4 cuốn Bách khoa thư bệnh học, được khởi công từ năm 1990 và hoàn thành 2004 và đã tái bản đến lần thứ ba.
Ông rất tâm đắc với cuốn HIV/AIDS, do Nhà xuất bản y học xuất bản năm 1993 lần đầu tiên đề cập toàn diện về chủ đề này; tái bản 2006 khá cập nhật và hiện đại. Bao nhiêu điều học được ở Hà Lan và kinh nghiệm thực hành của ông được thể hiện trong cuốn Những vấn đề cơ bản và mới về bệnh viêm gan virut. Ông cũng viết cuốn Lâm sàng và điều trị sốt rét, xuất bản 1994 nêu rõ sốt rét ác tính chủ yếu là do tắc mạch não còn các phản ứng khác là thứ phát và đề cao việc dùng artemisinin và thuốc chống huyết khối. Trong chỉ đạo phòng chống sốt xuất huyết, ông chủ trương dập dịch phải bắt đầu khi có những ca sốt Dengue cổ điển... Tất cả những suy nghĩ chiến lược và chính sách về y tế, nước sạch vệ sinh môi trường, dân số và sức khỏe sinh sản đã được ghi lại trong cuốn sách "Những vấn đề cơ bản về y tế, kế hoạch hóa gia đình, vệ sinh môi trường 1980-2000" mà ông là tác giả đã xuất bản năm 2001.
Ông đã cùng các Viện trưởng đầu ngành và các cán bộ vụ, cục Bộ Y tế soạn thảo Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân, đã được Quốc hội khóa XIII, phê duyệt ngày 30/6/1989 và soạn thảo chiến lược bảo vệ sức khỏe nhân dân 1990-2000 dưới dạng chương trình mục tiêu quốc gia cấp nhà nước và cấp Bộ, là dấu son về đổi mới phương thức hành động theo khoa học y tế công cộng của nước ta.
GS.VS. Phạm Song còn vinh dự được giao chủ nhiệm chương trình khoa học nhà nước về chống nhiễm khuẩn 1990-2000 mã số KYO1.
Ông đã đề nghị thành lập Ủy ban quốc gia phòng chống HIV/AIDS khi chưa có ca HIV(+) nào ở Việt Nam và từ 1990 đã có chương trình trung hạn giảm thiểu tác hại lây nhiễm HIV do Tổ chức Y tế Thế giới hỗ trợ xây dựng.
Do những đóng góp của ông trong sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân ông đã nhận được Huân chương Độc lập Hạng hai, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ Hạng nhất, Thầy thuốc Nhân dân đợt đầu tiên. Trong khoa học ông đã được công nhận chức danh giáo sư 1991, Viện sĩ y học Liên bang Nga về hệ thống và biện chứng năm 2000 và Viện Tiểu sử Hoa Kỳ tặng danh hiệu Nhà khoa học tiêu biểu 2006 do cống hiến trọn đời cho y học.
GS. Phạm Song đã nghỉ hưu từ tháng 7/2000, nhưng ông đã đảm nhận Chủ tịch Hội kế hoạch hóa gia đình khóa 2, tham gia 2 khóa Thường vụ Hội kế hoạch hóa gia đình khu vực châu Á Thái Bình Dương. Năm 2006, tại Đại hội Tổng hội Y học Việt Nam, ông được bầu là Chủ tịch Tổng hội. Ông vẫn làm việc cần mẫn đúng giờ, ngày 6 tiếng trên máy tính, tự mình viết tham luận, hay báo cáo như từ trước đến nay. Hiện nay, giáo sư cùng các đồng nghiệp đang chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa y học, xây dựng báo điện tử về đái tháo đường và vận động xây dựng Chiến lược toàn diện về phòng chống viêm gan virut B, C và đái tháo đường. Ngoài ra, ông còn dự định cho nhiều công việc nghiên cứu khoa học và viết sách về y học... Ông nghĩ, nếu làm được thêm như vậy là đã đền đáp một phần công ơn của Đảng, Nhà nước, nhân dân đã đào tạo ông trở thành người hữu dụng cho đất nước.