Sunday, December 14, 2014

ATLAS NETTER IPAD TUYỆT ĐẸP VÀ MIỄN PHÍ


Quyển sách sinh viên y khoa khắp thế giới đều muốn sở hữu nay đã có trên ipad: ứng dụng atlas giải phẫu người của Netter. Thay vì phải "rinh" quyển sách hơn 2kg thì bây giờ chỉ cần một chiếc ipad là dễ dàng tra cứu các chi tiết giải phẫu đẹp tuyệt vời trên màn hình retina. Ngoài ra, ứng dụng còn có những mục giúp vượt qua kỳ thi giải phẫu rất tuyệt vời. Quan trọng nhất là khi đã có trên blog này thì hoàn toàn miễn phí. Còn chờ gì nữa, tải về ngay nhé các bạn!


Hướng dẫn: sau khi tải 12 link bên dưới. Sau đó dùng phần mềm tải ở đây https://drive.google.com/file/d/0B_aQ4t-kM1coUFNENm9EODBTeGc/view?usp=sharing để nối file lại

Link tải
https://drive.google.com/file/d/0B_aQ4t-kM1coXzdkNExLZk5pX1U/view?usp=sharing
https://drive.google.com/file/d/0B_aQ4t-kM1cocUZDSzdjcFdOdFU/view?usp=sharing
https://drive.google.com/file/d/0B_aQ4t-kM1coSGdPTzRoTVE1Nkk/view?usp=sharing
https://drive.google.com/file/d/0B_aQ4t-kM1coT25pVUVBLWZQS0U/view?usp=sharing
https://drive.google.com/file/d/0B_aQ4t-kM1coYkFNdFhfc0JfRGc/view?usp=sharing
https://drive.google.com/file/d/0B_aQ4t-kM1cocDJPdUNFS1pCZTA/view?usp=sharing
https://drive.google.com/file/d/0B_aQ4t-kM1coek5ReG1Xc1prR2s/view?usp=sharing
https://drive.google.com/file/d/0B_aQ4t-kM1coWkx5R3ByUS1JSmc/view?usp=sharing
https://drive.google.com/file/d/0B_aQ4t-kM1coZ2NyU2J6dnhJR1k/view?usp=sharing
https://drive.google.com/file/d/0B_aQ4t-kM1cobHEyZi1heHpvQXM/view?usp=sharing
https://drive.google.com/file/d/0B_aQ4t-kM1coVTY3OU5nRjYzcG8/view?usp=sharing
https://drive.google.com/file/d/0B_aQ4t-kM1codFZJOV9JQkJIdXM/view?usp=sharing








QUY LUẬT NHÂN QUẢ TRONG Y KHOA

Lâu rồi không chạm đến đề tài y khoa. Hôm nay có thân chủ hỏi tỷ mỷ về một căn bệnh thông thường. Và cũng có một học viên thạc sỹ y khoa nhờ viết về một vấn đề y triết học mà anh ta đang học, nhưng chưa thông. Nên xin viết ra đây để xem như một giải trình y triết. Vì triết học là môn khoa học chung nhất, nó nghiên cứu sự vật và hiện tượng của tự nhiên và xã hội, để tìm ra những quy luật của các đối tượng nghiên cứu. Nếu không nắm được nó thì sẽ không thể có phương pháp và giữ lại những kiến thức sâu rộng của nhân loại hôm nay.

Trong một bài trước đây, nói với một đồng nghiệp đang vướn vào vấn đề y đức. Tôi đã từng viết trong y học có 3 bậc mà bất kỳ người thầy thuốc nào cũng phải biết: y chứng, y nguyên và y triết. 

Y chứng là y triệu chứng, công việc của các người làm y ở bậc thấp nhất. Đau đâu đánh đấy, mà không cần biết nguyên nhân. 

Y nguyên là y học nguyên nhân, công việc của những thầy thuốc đích thực. Phải tìm ra nguyên nhân để chữa và tiên lượng bệnh thành bại trong chữa trị.

Y triết là y học của tầm vĩ mô nhìn thấu được y lý của cả nhân loại để đi đến việc đạt được tiêu chí của ngành y: "Phòng bệnh hơn chữa bệnh".

Y học là một ngành khoa học thực chứng có liên quan cả 2 lĩnh vực khoa học tự nhiên và xã hội. Có thực hành, thực nghiệm và có chứng cứ cho mọi tư duy và hành động trong nghề nghiệp. Y học không phải là chiêm tinh học, cái ngành mà chỉ ngồi để phán đoán dựa theo những gì đã được cho là "đúng" như thầy bói.

Nếu trong y học phương Đông lấy triết lý phương Đông làm nền tảng lý thuyết để mọi thực hành làm theo trong việc khám và chữa bệnh. Thì ngược lại, y học Tây phương lấy thực chứng để làm nên lý thuyết cho mọi hoạt động trên cơ sở sử dụng duy vật luận là nền tảng cho thực chứng.

Trong y nguyên lại chia làm 3 bậc khác nhau - theo thứ tự của độ khó - điều trị, chẩn đoán và tiên lượng. Người làm nghề y giỏi là người chẩn đoán và tiên lượng giỏi. Chứ không phải người điều trị giỏi. Vì chẩn đoán không đúng nguyên nhân thì điều trị sẽ không hết bệnh. Và nếu chẩn đoán đúng nguyên nhân, nhưng tiên lượng chưa đúng thì việc điều trị cũng không đem đến một kết quả hoàn hảo, mà có khi tiền mất mà tật lại mang. Ví dụ: một bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối đã chẩn đoán đầy đủ cần phải phẫu thuật. Nhưng dù có phẫu thuật hay không phẫu thuật khối ung thư đó thì, tiên lượng thời gian sống còn của người bệnh không thay đổi thì, có nên đè người bệnh ra để phẫu thuật không? Đó là y đức rút ra từ tiên lượng trong y học.
Làm sao một thầy thuốc có thể chữa hết bệnh cho một bệnh nhân khi người thầy thuốc ấy không hoặc chưa tìm ra được nguyên nhân của căn bệnh ấy? Nên việc của người thầy thuốc là phải chẩn đoán được bệnh không chưa đủ, mà phải chẩn đoán được nguyên nhân của căn bệnh ấy. Nếu không, nhiệm vụ của người thầy thuốc chưa hoàn thành.

Từ gần 2.600 năm trước, khi ngài Tất Đạt Đa ngộ, ông đã đưa nhân - quả trở thành một qui luật cho đạo và đời. Sau ngài Tất Đạt Đa hơn 2200 năm - Emmanuel Kant (1724-1804) - mới dùng nhân quả như một cặp phạm trù cho lý luận của mình. Mặc dù trước Emmanuel Kant các nhà khoa học vẫn sử dụng nhân - quả như một cặp phạm trù trong suy luận để khai phá mọi lĩnh vực tự nhiên và xã hội.

Nếu chịu khó quan sát, cuộc sống thường nhật nhân - quả luôn hiện diện mọi lúc, mọi nơi, mọi hiện tượng sự vật. Trong y học và trong các ngành khoa học khác, nhân - quả không thể thiếu khi biết dùng nó một cách nhuần nhuyễn.

Đứng trên quan điểm y triết, thì bệnh lý là hậu quả. Còn nguyên nhân gây ra bệnh nằm ở đằng sau là cái mà thầy thuốc cần tìm để giải quyết bệnh. Nhưng ngoài quan điểm y triết ra, người thầy thuốc còn phải nhìn thấu cái kết cuộc của nguyên nhân gây ra bệnh nó sẽ đưa căn bệnh đi về đâu với khả năng hiểu biết và chữa trị của y học đương đại. Ấy mới là một thầy thuốc toàn diện và làm đúng chức năng và nhiệm vụ của mình. Và lúc ấy người thầy thuốc mới đạt được tiêu chuẩn y đức.

Người thầy thuốc giỏi và có đạo đức là người thầy thuốc phải có kiến thức toàn diện chứ không chỉ có kiến thức y học - đặc biệt phải thông tư tưởng triết học trong y học - thì mới nhìn ra bản chất của những hiện tượng mà được gọi là những biểu hiện lâm sàng của bệnh lý, nguyên nhân của bệnh lý và bao nhiêu cặp phạm trù khác đang có mặt trên con bệnh của mình.

Và không cứ gì trong y học mới cần đến triết học để làm nền tảng cho sự đi tìm. Mà triết học đã là nền tảng cho mọi phát minh nhân loại từ khi khai sinh lập địa đến ngày nay.

BS. Hồ Hải


CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH NGHIÊN CỨU PHÂN TÍCH GỘP

Phân tích gộp là nghiên cứu có giá trị nhất trong thang giá trị nghiên cứu y học chứng cứ.
Bài giảng rất hay của TS. Nguyễn Văn Huy – Viện Đào tạo YHDP và YTCC, Trường Đại học Y Hà Nội
Link tải
http://www.oni.vn/MWti8

HÓA SINH LÂM SÀNG GS ĐỖ ĐÌNH HỒ


Cuốn sách ” Hóa sinh lâm sàng ” này được biên soạn bởi các thầy cô trong Bộ môn Hóa Sinh Trường Đại học Y Dược Hồ Chí Minh, chủ biên là thầy Đỗ Đình Hồ.
Link tải
https://drive.google.com/file/d/0B_aQ4t-kM1coeDBGVVp2WHJwRFE/view?usp=sharing

Saturday, December 13, 2014

KỸ NĂNG GIAO TIẾP TỐT VỚI BỆNH NHÂN

Với những hình ảnh biểu cảm và ấn tượng. Giáo sư Nguyễn Sào Trung cho chúng ta những "mẹo" giao tiếp hiệu quả với người bệnh.

Link tải
http://www.oni.vn/dvUJQ


Trường Y chỉ là nơi để tạo ra cái nền, trang bị cho các em kiến thức về y học và khoa học. Sau khi ra trường, trong quá trình làm việc, các bác sĩ tiếp tục học hỏi từ thực tế, từ các bậc đàn anh, qua các khóa đào tạo y khoa liên tục, sách vở và nhất là các trang web, nghĩa là phải tự đào tạo mình. Khi đã vào ngành Y, làm bác sĩ là phải chấp nhận làm sinh viên suốt đời" - GS.TS.BS Nguyễn Sào Trung. sự kiện nóng

                             GS.TS.BS Nguyễn Sào Trung.
                         Tranh Hoàng Tường











GS.TS.BS Nguyễn Sào Trung là một “con ngoan, trò giỏi”. Năm 1969, sau khi tốt nghiệp tú tài, ông thi vào bảy trường đại học ở Sài Gòn và đều đậu hết. Sở dĩ có thể thi được nhiều trường như vậy là bởi hồi đó các trường đại học đều tự trị, tự tổ chức tuyển sinh vào những thời điểm khác nhau.

Nhập học ngành điện tại Trường Phú Thọ (nay là Trường đại học Bách Khoa) được khoảng một tháng, Nguyễn Sào Trung nhận được giấy báo đậu trường Y. Để sau này sẽ có một bác sĩ trong nhà như mong muốn của người mẹ của mình, anh chuyển sang học Y. Vâng lời thầy hiệu trưởng, sau khi tốt nghiệp, anh ở lại trường làm công tác giảng dạy. Hơn 30 năm gắn bó với nghề y, Nguyễn Sào Trung được nhắc đến như một người thầy giáo tận tâm, một người thầy thuốc tận tụy.
Dù khá bận rộn với công tác tuyển sinh nhưng ông vẫn thu xếp dành cho chúng tôi một cuộc tiếp xúc, diễn ra tại văn phòng làm việc của ông trong khuôn viên Trường đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Cuộc trò chuyện mở đầu bằng những trăn trở của ông đối với thực trạng ngành Y hiện nay. Ông nói:
Nguồn nhân lực y tế vừa thiếu, vừa yếu, và mất cân đối nghiêm trọng về chất lượng điều trị giữa khu vực thành thị và nông thôn. Đây cũng là tình trạng chung của thế giới hiện nay. Ngay tại các nước đã phát triển, có nền y học tiên tiến, người ta vẫn luôn phải đi tìm lời giải thích hợp cho hai vấn đề trên. Theo một báo cáo năm 2006 của Tổ chức Y tế Thế giới, tại nhiều nước, kể cả các nước đã phát triển, nhu cầu về nhân lực y tế ngày càng cao, do một số nguyên nhân như sau.

Thứ nhất, số lượng cán bộ y tế được đào tạo hằng năm không đủ so với nhu cầu. Thứ hai, đội ngũ cán bộ y tế đang ngày càng già đi. Thứ ba, tuổi thọ bình quân tăng cao, tuổi bình quân của dân số cũng già hơn nên cũng có nhiều bệnh tật hơn, đòi hỏi chăm sóc y tế nhiều hơn. Thứ tư, tỷ lệ của nhiều bệnh mạn tính tăng cao. Dự báo trong 10 năm tới, đặc biệt là tại châu Á, châu Phi, Trung Đông, tỷ lệ của các bệnh mạn tính không lây, đặc biệt là các bệnh tiểu đường, tim mạch, hô hấp, ung thư, tâm thần, sẽ tăng cao, do lối sống ít vận động, thói quen ăn uống thực phẩm “thừa năng lượng, ít chất xơ”, hút thuốc lá, căng thẳng thường xuyên… Các bệnh này sẽ làm cho gánh nặng tài chính và nhân lực của ngành y tế vốn đã nặng càng nặng thêm.
Có một số ý kiến cho rằng ngành Y của chúng ta tụt hậu khá xa so với thế giới. Là người có nhiều năm làm công tác giảng dạy tại một trong những trung tâm đào tạo y khoa lớn nhất cả nước, ông nghĩ sao?
- Theo tôi, có thể chia y học thành hai lĩnh vực, điều trị và nghiên cứu cơ bản. Trong lĩnh vực điều trị, thầy thuốc chúng ta không thua kém các nước khác. Nhưng trong nghiên cứu cơ bản, nhất là những nghiên cứu phục vụ điều trị, chúng ta còn tụt hậu nhiều mặt. Mà nghiên cứu cơ bản mới là vấn đề cốt lõi của y học. Không phải ngẫu nhiên mà hầu hết các giải Nobel Y học đều được trao cho những nhà khoa học trong lĩnh vực nghiên cứu cơ bản bởi những thành tựu từ các nghiên cứu này tạo tiền đề cho những đột phá trong y học. Chẳng hạn, điều trị ung thư hiện nay có phương pháp mới mà bác sĩ Nguyễn Chấn Hùng (nguyên Giám đốc Bệnh viện Ung bướu - PV) thường gọi là “điều trị nhắm trúng đích”, đưa thuốc đến tiêu diệt các tế bào ung thư nhưng không gây hại cho tế bào bình thường, thực chất cũng bắt nguồn từ các kết quả của nghiên cứu cơ bản.
Theo ông, chúng ta đầu tư cho nghiên cứu cơ bản đã đúng mức chưa?
- Ở nước ta, đầu tư cho nghiên cứu cơ bản mới được chú trọng trong thời gian gần đây với một số ít trường, viện và bệnh viện có những phòng thí nghiệm hiện đại. Tuy nhiên, cơ sở vật chất chỉ là một mặt của vấn đề. Nghiên cứu cơ bản còn đòi hỏi chất xám. Đội ngũ các nhà khoa học hiện nay đã thiếu lại càng thiếu do khiếm hụt đội ngũ kế cận. Rất hiếm các bác sĩ mới ra trường chịu làm việc trong phòng thí nghiệm và những chuyên ngành ít tiếp xúc với người bệnh. Thu nhập là một trong những lý do chính khiến phần lớn cán bộ ngành Y chọn lĩnh vực điều trị.

Thậm chí, ngay trong lĩnh vực điều trị, có những chuyên ngành cũng thiếu bác sĩ. Ví dụ, để một ca mổ được thành công, ngoài bác sĩ phẫu thuật, còn có sự tham gia của các bác sĩ khác, đặc biệt là bác sĩ gây mê. Vậy mà, sau ca mổ, bác sĩ phẫu thuật luôn được nhiều quyền lợi hơn. Do đó, trên thực tế, có rất ít sinh viên chịu theo ngành gây mê, huống hồ là nghiên cứu cơ bản. Bác sĩ mới ra trường bây giờ chẳng những không còn bị thất nghiệp mà còn có thể chọn chuyên ngành mình thích do bệnh viện tư xuất hiện ngày càng nhiều.
Vậy tại sao không tăng tốc đào tạo để tăng nguồn cung, thưa ông?
- Thực ra, trường chúng tôi đã tăng cung từ lâu. Tăng cung mà vẫn phải bảo đảm chất lượng đầu ra. Để vừa tăng cung vừa vẫn giữ chất lượng bác sĩ khi ra trường, có hai vấn đề phải giải quyết. Thứ nhất là cơ sở vật chất. Khoa Y, Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh, tiền thân là Đại học Y khoa Sài Gòn, chỉ đủ chỗ đào tạo khoảng 200 bác sĩ mỗi năm.

Từ nhiều năm nay, trường đã tăng gấp đôi số lượng đầu vào, chưa kể số học viên sau đại học và số sinh viên đào tạo theo nhu cầu địa phương. Được xây dựng vào thập niên 1960 nên cơ sở vật chất đã quá cũ, dù luôn được nâng cấp nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu. Thứ hai là tình trạng thiếu hụt giảng viên, đặc biệt là giảng viên cho các bộ môn Y học cơ sở. Hằng năm, trường có khoảng 400-500 sinh viên tốt nghiệp nhưng để tuyển dụng được năm mười em ở lại trường làm công tác giảng dạy cũng đã rất khó, vì đa số bác sĩ đều muốn làm công tác điều trị, không chọn lĩnh vực nghiên cứu. Thế nên, dù rất nỗ lực nhưng việc tăng số lượng đào tạo cũng có hạn. Để giải quyết được hai vấn đề này cần phải có thời gian.
Cách nay mấy tháng, ngành Y tế đã tổ chức một hội nghị bàn về nguồn nhân lực y tế. Có ý kiến cho rằng nên mở thêm các trường Y khoa cũng như nâng cấp một số trường cao đẳng Y khoa lên hệ đại học. Ông suy nghĩ thế nào về đề xuất này?
- Mở thêm trường đại học mới hoặc nâng trường cao đẳng lên thành đại học đều nên làm, nhưng không nên vì mục tiêu số lượng. Phải có đủ cơ sở vật chất và nguồn nhân lực có chất lượng tương ứng. Nếu không, việc nâng cao đẳng lên thành đại học cũng giống như thay bình nhưng không đổi rượu! Cần nhớ rằng ngành Y liên quan mật thiết với sức khỏe và sinh mạng con người. Bác sĩ mà không giỏi sẽ trở thành sát nhân có giấy phép.
Thực tế có những lời phàn nàn rằng bác sĩ mới ra trường không “viết nổi toa thuốc”…
- Khi tôi còn là sinh viên, các thầy của tôi cũng nói như vậy. Thật ra, sinh viên của nước nào cũng vậy thôi, sau khi hoàn tất chương trình đại học Y khoa, đều chưa thể làm việc ngay được. Trường Y chỉ là nơi để tạo ra cái nền, trang bị cho các em kiến thức về y học và khoa học. Sau khi ra trường, trong quá trình làm việc, các bác sĩ tiếp tục học hỏi từ thực tế, từ các bậc đàn anh, qua các khóa đào tạo y khoa liên tục, sách vở và nhất là các trang web, nghĩa là phải tự đào tạo mình. Khi đã vào ngành Y, làm bác sĩ là phải chấp nhận làm sinh viên suốt đời.
Bận rộn với công tác quản lý, giảng dạy và điều trị, ông học vào lúc nào?
- Làm quản lý không có nghĩa là ôm hết việc vào mình. Mà có muốn ôm cũng ôm không nổi. Bên cạnh tôi còn có những cộng sự. Tôi chủ trương giao việc cho cộng sự, nhất là những bạn trẻ, còn mình chỉ đốc thúc và tham gia ý kiến khi cần thiết. Đó cũng là cách đào tạo đội ngũ kế tục khi về hưu. Về việc học, tôi thấy chưa khi nào học dễ như hiện nay. Ngày xưa chỉ có sách in, mất thì giờ tra cứu. Bây giờ chỉ cần biết tiếng Anh, vào Internet là có hàng ngàn, hàng vạn trang web nói về những vấn đề mà mình còn khúc mắc. Học kiểu này vừa đỡ mất thì giờ và nhiều khi rất lý thú.
Ông nhận xét thế nào về các học trò của mình?
- Điểm thi đầu vào trường Y rất cao. Vì vậy phần lớn sinh viên đều có vốn kiến thức rất tốt, nếu chịu khó thì chắc chắn sẽ trở thành những thầy thuốc giỏi. Nhờ chủ động học thêm các giáo trình y khoa tiếng Anh trên Internet từ thời sinh viên nên đã có những người sau khi tốt nghiệp ở trường này, sang Hoa Kỳ để thi lấy bằng tương đương. Có những trường hợp chỉ mất thêm một đến hai năm là đậu. Mới đây, có một trường hợp thi đậu vào một trường Y khá lớn ở Calirfonia, sau hai năm học đã được giữ lại làm giảng viên.
Đất lành chim đậu...
- Thế nên đừng vội trách “chim”. Khoảng 80% sinh viên của Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh là người ngoại tỉnh nhưng sau khi tốt nghiệp, hầu hết các em đều không về công tác tại địa phương. Một phần vì vấn đề thu nhập, một phần vì ở lại thành phố các em có điều kiện thuận lợi hơn nhằm phát huy khả năng, nâng cao tay nghề… để trở thành bác sĩ giỏi, thăng tiến trong nghề nghiệp.
Nước chảy chỗ trũng. Bác sĩ giỏi ở thành phố thì bệnh nhân ở nông thôn, vùng sâu vùng xa cũng đổ ra thành phố. Xem ra “bài toán quá tải” vẫn chưa có lời giải?
- Muốn nước không chảy chỗ trũng thì phải thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. Tôi nghĩ chẳng ai muốn đi xa quê hương, xa gia đình… Mấy năm trước, tôi có dịp đến thăm Trường đại học Songkla (Thái Lan) ở vùng giáp biên giới với Malaysia. Một giảng viên của trường đại học đó có mời tôi ghé thăm nhà riêng nằm trong khuôn viên trường. Cậu ấy cho biết cái villa mình đang ở là do trường cấp, còn lương thì được trả cao hơn những đồng nghiệp ở Bangkok. Khi tiếp xúc với ông hiệu trưởng, tôi có hỏi về vấn đề này thì được trả lời rằng nếu không đãi ngộ như vậy thì không thể tuyển được giảng viên vì họ sẽ về Bangkok hết.
Hiện nay, một số tỉnh đã có chế độ kích thích nhân tài bằng những khoản hỗ trợ vài chục triệu đồng, tùy theo từng địa phương, nhằm kéo chất xám về. Như đã nói, có những người ở lại thành phố để phát triển nghề nghiệp. Vì vậy, để thay đổi thực trạng này theo hướng tích cực, dứt khoát phải có vai trò của Nhà nước. Cũng như giáo dục, y tế là vấn đề an sinh xã hội. Các cơ sở y tế hiện nay không đồng bộ, nơi được đầu tư nhiều, nơi lại quá ít. Nếu được đầu tư đúng mức thì chất lượng điều trị sẽ tăng lên. Khi đó, không chỉ thu hút được nhân lực mà bệnh nhân cũng đến.

Cách nay ít lâu, tôi đến thăm Bệnh viện đa khoa của huyện Củ Chi. Tuy là bệnh viện khu vực với một ngàn giường nhưng cơ sở điều trị này thường xuyên quá tải. Trong khi đó vẫn có những bệnh viện ở thành phố còn khá nhiều giường trống. Sở dĩ Bệnh viện Củ Chi làm được như vậy là nhờ ban lãnh đạo đã mời các giáo sư giỏi về chuyển giao kỹ thuật cho đội ngũ y bác sĩ. Còn một yếu tố nữa dẫn đến tình trạng quá tải ở các bệnh viện là do… báo chí. Lâu lâu lại đưa tin chỗ này cứu sống được bệnh nhân đâm thủng tim, chỗ kia mổ được khối u mấy ký lô… Cứu sống bệnh nhân là điều đáng mừng, nhưng trong một chừng mực nào đấy thì việc đưa tin vô hình trung trở thành một dạng quảng cáo. Thế nên mới có tình trạng những người bệnh không quá nghiêm trọng nhưng vẫn tìm đến đúng địa chỉ điều trị được báo chí nêu, dẫn đến quá tải.
Được biết ông là chủ biên của Từ điển y học chăm sóc sức khỏe y học gia đình. Dường như cuốn sách này chẳng liên quan gì đến chuyên ngành giải phẫu bệnh và ung bướu mà ông theo đuổi mấy chục năm nay?
- Giáo trình giải phẫu bệnh chủ yếu tôi viết cho sinh viên. Việc tôi cùng các cộng sự làm cuốn từ điển vì có một thực tế là kiến thức y học của người dân không cao, nên nhiều khi bệnh nhẹ, có thể tự điều trị được nhưng họ vẫn đi khám bác sĩ, rất tốn kém. Cũng có khi vì không biết bệnh của mình nên bệnh nhân áp dụng phương pháp điều trị không đúng hoặc tìm đến không đúng bác sĩ điều trị. Chưa kể có những bác sĩ thiếu y đức, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của bệnh nhân để trục lợi.

Ngược lại, nếu người bệnh biết rõ bệnh của mình thì những bác sĩ hám lợi không chỉ chùn tay, không dám làm bậy, mà bệnh nhân còn có thể hợp tác tốt với bác sĩ trong quá trình khám bệnh. Nhiều bác sĩ bây giờ rất lười động não, ỷ lại vào các phương tiện xét nghiệm. Nhiều khi chỉ hỏi qua quýt rồi viết giấy yêu cầu bệnh nhân đi xét nghiệm, thậm chí làm thêm những xét nghiệm không cần thiết. Thành ra, thay vì rút một chút xíu máu, thì bệnh nhân bị rút một ống máu. Sự biếng nhác của bác sĩ đã tạo thêm gánh nặng dồn lên vai bệnh nhân.

Có một chuyện xảy ra đã lâu mà tôi nhớ hoài. Bác sĩ trưởng khoa chẩn đoán hình ảnh ở một bệnh viện hoan hỉ báo cáo với ban giám đốc rằng trong tuần số ca làm kỹ thuật cao tăng vọt. Ngay lúc đó, giám đốc bệnh viện cũng là thầy của rất nhiều bác sĩ phân tích rằng đó không phải là tín hiệu vui, mà có thể là do các bác sĩ lâm sàng không chịu động não, nhờ máy móc làm giùm, khiến bệnh nhân tốn tiền.
Thực tế thì đã có những trường hợp bệnh nhân tử vong vì bác sĩ chẩn đoán sai. Cẩn tắc vô ưu. Có khi chính những sự cố đáng tiếc này khiến một số bác sĩ e ngại, “tặc lưỡi” ký giấy cho bệnh nhân đi xét nghiệm cho yên tâm?
- Trong ngành Y, không phải cứ lịch sự, tôn trọng, không nhũng nhiễu người bệnh là có y đức. Ngoài việc đối xử tử tế với người bệnh, người thầy thuốc còn phải đủ khả năng chữa trị cho người bệnh hay ít nhất là không làm hại người bệnh. Nói ngắn gọn là bác sĩ nếu chỉ có cái tâm thôi thì chưa đủ, mà còn phải có tài nữa. Muốn vậy thì phải học không ngừng. Lễ độ với bệnh nhân mà trị không hết thì cũng chẳng ích gì.
Nhưng cứ kêu gọi y đức suông thì e rằng “cũng chẳng ích gì”, thưa ông?
- Tôi tin rằng bất cứ ai vào ngành Y cũng đều có cái tâm. Suốt sáu năm học ở trường Y, dù không có những giờ học chính khóa nhưng đều có những hoạt động thay cho những bài học về y đức. Đó là buổi lễ tiếp lửa truyền thống đầu năm học nhằm nhắc nhở thế hệ đàn anh dìu dắt các đàn em; là những chuyến đi cứu trợ đồng bào bị thiên tai hoặc khám bệnh phát thuốc miễn phí cho đồng bào nghèo ở Cà Mau, Kiên Giang, Bình Phước…; là chiến dịch Mùa hè xanh, là lễ Macchabée được tổ chức đều đặn vào ngày 23 tháng Chạp hàng năm, nhằm giúp các em bày tỏ lòng tri ân với những người đã hiến xác cho sự nghiệp giáo dục và nghiên cứu khoa học.

Những hình ảnh đó chắc chắn sẽ khó phai trong tâm trí các em, nhắc nhở các em phải cư xử tốt đối với mọi người, đặc biệt là người bệnh. Hiện nay, nhà trường đã bổ sung thêm bộ môn Y đức - Xã hội học vào nội dung đào tạo. Từ năm học 2009-2010, tất cả sinh viên hệ đại học và sau đại học đều được học chính khóa về y đức.
Bản thân ông có những nguyên tắc nào để giữ gìn y đức?
- Tôi thường nói với học trò và các con tôi rằng hãy làm bất kỳ chuyện gì mình thích nhưng không làm hại đến người khác.
Tức là các con ông cũng nối nghiệp cha?
- Tôi có ba người con thì hai là bác sĩ. Còn con trai út thì đang học trung học. Nề nếp gia đình là nền móng để phát triển. Hai người con lớn của tôi đã lập gia đình. Dù rất bận rộn nhưng các thành viên trong gia đình tôi vẫn giữ thói quen ăn cơm chung. Khoảng thời gian quây quần quanh mâm cơm là lúc tôi trao đổi ý kiến và giáo dục con cái. Đó cũng là một hình thức để giữ nếp nhà.
Một câu hỏi cuối cùng. Khép lại một ngày làm việc mệt mỏi, ông làm gì để tìm lại sự cân bằng cho mình?
- Tôi nghĩ rằng cuộc sống của mình khá cân bằng. Trừ những trường hợp bất khả kháng, tôi có một nguyên tắc là không làm việc ngày thứ Bảy và Chủ nhật, dành thì giờ đưa vợ và con trai út của tôi đi chơi cùng một nhóm bạn thân. Vài ba tháng, chúng tôi lại tổ chức đi khám bệnh từ thiện một lần, địa điểm thường là các tỉnh miền Tây.
Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này.

  • Theo Thượng Tùng (Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần)














Friday, December 12, 2014

SỰ THẬT VỀ SỮA VÀ CÁC SẢN PHẨM TỪ SỮA



5100 Wisconsin Ave., N.W., Suite 400, Phone (202) 686-2210, Fax (202) 686-2216. pcrm@pcrm.org, www.pcrm.org
Người dịch: Trần Lan Hương, AADP Certified Health Coach
Nhiềungười Mỹ, kể cả một số người ăn chay, vẫn tiêu thụ một lượng lớn các sản phẩm từ Sữa. Sau đây là 8 lý do lớn nên lọai Sữa ra khỏi chế độ ăn của bạn.
1. LOÃNG XƯƠNG
Sữa được chào bán để ngăn ngừa loãng xương, nhưng các nghiên cứu lâm sàng lại cho thấy khác. Công trình nghiên cứu Sức khỏe trên các Y tá của ĐH Havard1 (the Harvard Nurses' Health Study) theo dõi hơn 75.000 phụ nữ trong suốt 12 năm cho thấy việc tăng tiêu thụ sữa không có hiệu quả bảo vệ đối với nguy cơ gẫy xương. Trên thực tế, việc tăng nạp canxi từ các sản phẩm sữa liên quan đến nguy cơ gẫy xương cao hơn. Một nghiên cứu của Australia2 cũng cho kết quả như vậy. Thêm vào đó, các nghiên cứu khác3,4 cũng không tìm thấy tác dụng bảo vệ xương từ canxi trong sữa. Bạn có thể tự giảm nguy cơ loãng xương cho mình bằng cách giảm ăn muối và đạm động vật5-7, tăng ăn rau và trái cây8, tập thể dục9, và đảm bảo nạp đủ canxi từ các thức ăn thực vật như các lọai rau lá màu xanh và đậu hạt, cũng như các sản phẩm tăng cường canxi như ngũ cỗc ăn sáng và nước trái cây.   
2. BỆNH TIM MẠCH
Các sản phẩm từ sữa - bao gồm phomai, kem, sữa, bơ và sữa chua - cung cấp một lượng đáng kể cholesterol và chất béo trong bữa ăn của bạn10. Một chế độ ăn nhiều chất béo và chất béo bão hòa có thể làm tăng nguy cơ gây ra một số bệnh mãn tính trong đó có bệnh tim mạch. Một chế độ ăn chay ít chất béo loại bỏ các thực phẩm từ sữa, kết hợp với tập thể dục, bỏ thuốc lá, và kiểm sóat sự căng thẳng stress, không những có thể ngăn ngừa bệnh tim mà thậm chí còn có thể đảo ngược nó11. Các sản phẩm sữa không béo cũng có trên thị trường nhưng chúng lại gây ra những nguy cơ sức khỏe khác được lưu ý dưới đây.
3. UNG THƯ
Một số lọai ung thư, như ung thư buồng trứng, có liên quan đến việc tiêu thụ các sản phẩm từ sữa. Đường lactose trong sữa khi đi vào cơ thể được phân tách thành một lọai đường khác là galactose. Đến lượt mình, đường galactose lại được các men enzyme phân tách tiếp. Theo một nghiên cứu của Tiến sĩ Daniel Cramer và các đồng nghiệp tại ĐH Y Havard12, khi ta tiêu thụ nhiều các sản phẩm từ sữa vượt quá khả năng phân tách galactose của các enzyme, nó có thể tích lũy lại trong máu và ảnh hưởng đến buồng trứng của phụ nữ. Một số phụ nữ có lượng enzyme này đặc biệt thấp, và khi họ tiêu thụ thường xuyên các sản phẩm từ sữa, nguy cơ bị ung thư buồng trứng của họ có thể cao gấp 3 lần so với các phụ nữ khác.
Ung thư vú và tuyến tiền liệt cũng có liên quan đến việc tiêu thụ các sản phẩm từ sữa, được cho là ít nhất có liên quan một phần đến việc làm tăng một hợp chất có tên là IGF-I13-15. Chất IGF-I được tìm thấy trong sữa bò và đã được phát hiện với liều lượng tăng lên trong máu của những người thường xuyên tiêu thụ các sản phẩm từ sữa. Trong sữa bò còn có các dưỡng chất làm tăng lượng IGF-I. Một nghiên cứu gần đây cho thấy những nam giới có lượng IGF-I cao nhất có nguy cơ mắc ung thư tiền liệt tuyến cao hơn gấp 4 lần so với những người có lượng IGF-I thấp nhất14.
4. TIỂU ĐƯỜNG
Các chứng bệnh tiểu đường phụ thuộc insulin (tiểu đường típ 1 hay tiểu đường ở người trẻ) có liên quan đến việc tiêu thụ các sản phẩm từ sữa. Các nghiên cứu bệnh dịch học ở nhiều nước cho thấy một mối tương quan mạnh mẽ giữa việc tiêu thụ các sản phẩm từ sữa với các trường hợp mắc tiểu đường phụ thuộc insulin17,18. Năm 199218 các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng một lọai protein trong sữa kích họat một phản ứng tự miễn trong cơ thể, điều được cho là tác nhân phá hủy các tế bào sản sinh insulin của tuyến tụy.   
5. KHÔNG DUNG NẠP ĐƯỜNG LACTOSE
Chứng không dung nạp Lactose phổ biến ở một số chủng tộc và ảnh hưởng đến khoảng 95% người Mỹ gốc châu Á, 74% người Mỹ bản xứ, 70% người Mỹ gốc Phi, 53% người Mỹ gốc Mêhicô và 15% người da trắng Caucasian19. Các triệu chứng bao gồm rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy và đầy bụng là do những người này không có các loại enzyme tiêu hóa đường lactose trong sữa. Hơn nữa, bên cạnh các triệu chứng không mong muốn này, những người uống sữa cũng tự đặt mình trước nguy cơ mắc các bệnh tật mãn tính khác.  
6. NGỘ ĐỘC VITAMIN D
Việc tiêu thụ các sản phẩm từ sữa có thể không cung cấp một nguồn vitamin D ổn định và đáng tin cậy trong chế độ ăn. Nghiên cứu các mẫu sữa được chọn mẫu cho thấy có sự khác biệt đáng kể về lượng vitamin D, một số mẫu sữa chứa đến 500 lần lượng ghi trên nhãn trong khi một số mẫu khác lại có rất ít hoặc không hề có vitamin D20,21. Quá nhiều vitamin D có thể gây ngộ độc và có thể dẫn đến có quá nhiều canxi trong máu và nước tiểu, làm tăng hấp thụ nhôm trong cơ thể và gây lắng đọng canxi trong các mô mềm.
7.   NHIỄM HÓA CHẤT
Các hócmôn tổng hợp như hócmôn tăng trưởng trên bò (rBGH) được sử dụng phổ biến trên bò sữa để tăng sản lượng sữa13. Do phải tiết ra một lượng sữa lớn trái với tự nhiên, kết quả cuối cùng là bò bị bệnh viêm tuyến vú. Việc chữa bệnh này cần dùng thuốc kháng sinh, và dư lượng kháng sinh và hócmôn này đã được tìm thấy trong mẫu sữa và các sản phẩm từ sữa bò. Các thuốc trừ sâu và dược phẩm khác cũng là những chất hay nhiễm trong các sản phẩm từ sữa.
8. CÁC LO NGẠI VỀ SỨC KHỎE ĐỐI VỚI TRẺ SƠ SINH VÀ TRẺ EM
Các chất đạm của sữa, chất đường của sữa, chất béo và chất béo bão hòa trong các sản phẩm từ sữa có thể gây ra những nguy cơ sức khỏe cho trẻ em và gây ra các bệnh mãn tính như béo phì, tiểu đường, và hình thành các mảng bám xơ vữa động mạch có thể dẫn đến bệnh tim. Viện Nhi khoa Hoa Kỳ khuyến nghị không cho trẻ dưới 1 tuổi uống sữa bò nguyên chất vì trẻ dùng nhiều sữa bò dễ bị thiếu sắt10. Các sản phẩm từ sữa bò có lượng sắt rất thấp. Nếu sữa bò trở thành một phần chính trong chế độ ăn của ai, người đó rất dễ bị thiếu sắt. Đau bụng cũng là một lo ngại khi dùng sữa bò. Cứ 5 em bé thì có 1 bé bị chứng đau bụng. Các bác sĩ nhi khoa đã biết từ lâu rằng nguyên nhân phổ biến là do sữa bò. Bây giờ chúng ta cũng đã biết, các bà mẹ đang cho con bú cũng dễ gây đau bụng cho con nếu các bà mẹ này dùng sữa bò. Các kháng thể của bò có thể truyền qua máu của mẹ đi vào sữa mẹ và truyền sang con22. Thêm vào đó, các bệnh dị ứng thức ăn cũng thường là do sử dụng sữa, đặc biệt là ở trẻ em. Một nghiên cứu gần đây23 cũng cho thấy sự liên quan giữa tiêu thụ sữa bò với bệnh táo bón mãn tính ở trẻ. Các nhà nghiên cứu khuyến cáo rằng tiêu thụ sữa làm đau vùng quanh hậu môn và đau dữ dội khi đi cầu dẫn đến bệnh táo bón.
Sữa và các sản phẩm từ sữa là không cần thiết trong chế độ ăn uống, và trên thực tế, có thể có hại cho sức khỏe trẻ em. Hãy theo một chế độ ăn lành mạnh bao gồm hạt ngũ cốc, trái cây, rau, đậu hạt và các thực phẩm ngũ cốc ăn sáng và nước trái cây được tăng cường dưỡng chất. Những thức ăn giàu dinh dưỡng này có thể dễ dàng giúp bạn đáp ứng đủ lượng canxi, kali, riboflavin và vitamin D cần thiết mà lại không có nguy cơ hại sức khỏe.    

Danh mục tài liệu tham khảo:
1.  Feskanich D, Willet WC, Stampfer MJ, Colditz GA.  Milk, dietarycalcium,  and  bone  fractures  in  women:  a  12-year  prospectivestudy. Am J Public Health 1997;87:992-7.
2.  Cumming RG, Klineberg RJ. Case-control study of risk factors forhip fractures in the elderly. Am J Epidemiol 1994;139:493-505.
3.  Huang Z, Himes JH, McGovern PG.   Nutrition and subsequent hip fracture risk among a national cohort of white women. Am J Epidemiol  1996;144:124-34.
4.  Cummings SR, Nevitt MC, Browner WS, et al. Risk factors for hip fracture in white women. N Engl J Med 1995;332:767-73.
5.  Finn  SC.   The  skeleton  crew:  is  calcium  enough?  J  Women’s Health  1998;7(1):31-6.
6.  Nordin  CBE.  Calcium  and  osteoporosis.  Nutrition  1997;3(7/8):664-86.
7.  Reid DM, New SA. Nutritional influences on bone mass. Proceed Nutr Soc 1997;56:977-87.
8.  Tucker KL, Hannan MR, Chen H, Cupples LA, Wilson PWF, Kiel DP. Potassium, magnesium, and fruit and vegetable intakes are associated with greater bone mineral density in elderly men and women. Am J Clin Nutr 1999;69:727-36.
9.  Prince  R,  Devine  A,  Dick  I,  et  al.  The  effects  of  calcium supplementation (milk powder or tablets) and exercise on bone mineral  density  in  postmenopausal  women.  J  Bone  Miner  Res 1995;10:1068-75.
10. Pennington JAT. Bowes and Churches Food Values of Portions Commonly Used, 17th  ed. New York: Lippincott, 1998.
11. Ornish D, Brown SE, Scherwitz LW, Billings JH, Armstrong WT, Ports  TA.  Can  lifestyle  changes  reverse  coronary  heart  disease? Lancet 1990;336:129-33.
12. Cramer DW, Harlow BL, Willet WC. Galactose consumption and metabolism  in  relation  to  the  risk  of  ovarian  cancer.  Lancet 1989;2:66-71.
13. Outwater JL, Nicholson A, Barnard N. Dairy products and breast cancer:  the  IGF-1,  estrogen,  and  bGH hypothesis.  Medical Hypothesis  1997;48:453-61.
14. Chan JM, Stampfer MJ, Giovannucci E, et al. Plasma insulin-like growth  factor-1  and  prostate  cancer  risk:  a  prospective  study. Science  1998;279:563-5.
15. World Cancer Research Fund. Food, Nutrition, and the Prevention of  Cancer:  A  Global  Perspective.  American  Institute  of  Cancer Research.  Washington,  D.C.:  1997.
16. Cadogan J, Eastell R, Jones N, Barker ME.  Milk intake and bone mineral  acquisition  in  adolescent  girls:  randomised,  controlled intervention trial. BMJ 1997;315:1255-60
17. Scott FW. Cow milk and insulin-dependent diabetes mellitus: is there a relationship? Am J Clin Nutr 1990;51:489-91.
18. Karjalainen J, Martin JM, Knip M, et al. A bovine albumin peptide as  a  possible  trigger  of  insulin-dependent  diabetes  mellitus.  N Engl J Med 1992;327:302-7.
19. Bertron P, Barnard ND, Mills M. Racial bias in federal nutrition policy,  part  I:  the  public  health  implications  of  variations  in lactase  persistence.  J  Natl  Med  Assoc  1999;91:151-7.
20. Jacobus  CH,  Holick  MF,  Shao  Q,  et  al.  Hypervitaminosis  D associated with drinking milk. N Engl J Med 1992;326(18):1173-7.
21. Holick   MF.   Vitamin   D   and   bone   health.   J   Nutr 1996;126(4suppl):1159S-64S.
22. Clyne PS, Kulczycki A. Human breast milk contains bovine IgG. Relationship  to  infant  colic?  Pediatrics  1991;87(4):439-44.
23. Iacono G, Cavataio F, Montalto G, et al. Intolerance of cow’s milk and chronic constipation in children. N Engl J Med 1998;339(16):1100-4.