Tuesday, September 2, 2014

GIÁO SƯ TÔN THẤT TÙNG – CÂY ĐẠI THỤ CỦA NGOẠI KHOA VIỆT NAM

Giáo sư Tôn Thất Tùng sinh ngày 10-5-1912 tại Thanh Hóa và lớn lên ở Huế - một miền đất có truyền thống hiếu học. Tận mắt chứng kiến cảnh yếu hèn của vua quan ở Huế, người thanh niên trẻ Tôn Thất Tùng không theo nghiệp học làm quan mà quyết định ra Hà Nội học ở trường Bưởi.
Năm 1932, ông học tại trường Y-Dược, một thành viên của Đại học Đông Dương, đóng tại Hà Nội với suy nghĩ đây là nghề “tự do”, không phụ thuộc vào quan lại hay chính quyền thực dân. Ngày ấy, cả Đông Dương chỉ có một trường thuốc duy nhất tại Hà Nội mà người bản xứ không được dự các kỳ thi nội trú. Từ năm 1935, Tôn Thất Tùng được tuyển cùng 10 sinh viên khác làm ngoại trú tại Bệnh viện Phủ Doãn. Anh sinh viên y khoa Tôn Thất Tùng là người đầu tiên đấu tranh buộc chính quyền thực dân phải tổ chức thi nội trú cho các bệnh viện Hà Nội. Năm 1935, anh là người duy nhất được nhận vào làm việc tại khoa ngoại của trường Y-Dược, tức là bệnh viện Việt - Đức hiện nay.


Trong điều kiện học tập khó khăn, các thầy giáo Pháp chủ yếu chú trọng kiến thức sách vở, ít liên hệ tới điều kiện khí hậu và con người bản xứ, trang thiết bị thiếu, lỗi thời, bác sĩ Tôn Thất Tùng đã phải tự đặt ra cho bản thân những nguyên tắc học tập và làm việc, coi công việc thực tiễn hàng ngày là quan trọng bậc nhất và là nguồn động lực đi vào con đường nghiên cứu khoa học.

Qua học tập, trao đổi với các đồng nghiệp, đặc biệt là khả năng quan sát, suy luận, bác sĩ Tôn Thất Tùng đã phát hiện trong gan của một người bệnh có hàng chục con giun chui ở các đường mật. Với một dụng cụ thô sơ, chỉ bằng một con dao nạo, ông đã phẫu tích kỹ lưỡng cơ cấu của lá gan. Bằng phương pháp này, trong suốt thời gian từ 1935 đến năm 1939, ông đã phẫu tích trên 200 lá gan của các tử thi để nghiên cứu các mạch máu. Rồi ông vẽ lại thành các sơ đồ, đối chiếu chúng với nhau để tìm ra những nét chung. Trên cơ sở đó, ông đã viết và bảo vệ thành công luận án tốt nghiệp bác sĩ y khoa với nhan đề “Cách phân chia mạch máu của gan”. Với bản luận án này, ông đã được tặng Huy chương Bạc của Trường Đại học Tổng hợp Paris (Trường Đại học Y-Dược tại Hà Nội lúc bấy giờ là một bộ phận). Bản luận án được đánh giá rất cao và trở thành tiền đề cho những công trình khoa học nổi tiếng của ông. Sau này, chính vì biết rõ các cơ mạch trong gan, vào những năm 1960, ông đã nghiên cứu thành công phương pháp “cắt gan có kế hoạch”. Đây là một phương pháp hoàn toàn mới và hiện đại, khác hẳn với những phương pháp trước đây. Vì trước đó, do chưa có mô tả chính xác các mạch máu trong gan nên người ta vẫn quen dùng phương pháp “cắt gan không có kế hoạch”. Ông cho rằng làm như vậy thì thật nguy hiểm, vì cắt xong nếu không đúng mạch, bệnh nhân có thể chết do chảy máu hoặc do hoại tử gan. Để ghi nhận công lao của người đầu tiên đã tìm ra phương pháp cắt gan này, người ta gọi là “Phương pháp mổ gan khô” hay “Phương pháp Tôn Thất Tùng”. Chính vì thế, giáo sư người Pháp nổi tiếng Malêghi trong báo “Lion phẫu thuật”, năm 1964 đã viết: “Trường Đại học Y khoa Hà Nội có thể tự hào đã có hai thành tựu trong lịch sử của mình, một là đã nghiên cứu lần đầu tiên về cơ cấu các mạch trong gan, hai là lần đầu tiên đã thành công trong việc cắt gan có kế hoạch”.

Cách mạng tháng Tám thành công, Tôn Thất Tùng là một trong những trí thức đầu tiên mang hết nhiệt tình xây dựng Trường Đại học Y khoa của nước Việt Nam DCCH.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, ông đã hăng hái đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cùng giáo sư, bác sĩ Hồ Đắc Di, ông đã góp nhiều công sức vào việc di chuyển và xây dựng Trường Đại học Y khoa qua nhiều địa điểm, là một trong những người chủ chốt đầu tiên đào tạo đội ngũ thầy thuốc, nghiên cứu khoa học và tổ chức lực lượng phục vụ kháng chiến. Cùng với giáo sư Đặng Văn Ngữ, ông đã góp phần vào việc nghiên cứu, sản xuất Penicilline phụ vụ thương bệnh binh. Năm 1947, ông được Chính phủ cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Y tế. Suốt thời kỳ chống Mỹ cứu nước, ông đã cùng tập thể bác sĩ và nhân viên bệnh viện Việt - Đức tham gia cấp cứu cho thương bệnh binh.

Từ sau ngày hòa bình lập lại, để tập trung khả năng vào công tác khoa học - kỹ thuật, ông được cử làm Giám đốc bệnh viện hữu nghị Việt - Đức, chủ nhiệm bộ môn Ngoại trường Đại học Y khoa Hà Nội. Với tất cả tâm huyết của mình, giáo sư Tôn Thất Tùng đã cống hiến rất nhiều cho sự nghiệp đào tạo các thầy thuốc và chuyên gia giỏi về y học, cho việc xây dựng ngành phẫu thuật Việt Nam, cho công tác nghiên cứu  và phát triển ngành y học của nước ta.

Năm 1958, giáo sư tiến hành thành công ca mổ tim đầu tiên ở Việt Nam.

Năm 1959, giáo sư phát triển khoa mổ sọ não và khoa ngoại nhi.

Năm 1960, giáo sư là người đầu tiên đề xuất và áp dụng có kết quả xuất sắc việc mổ gan bằng phương pháp Việt Nam.

Năm 1965, giáo sư triển khai thành công việc mổ tim bằng máy tim phổi nhân tạo ở nước ta.

Giáo sư đã tham gia nhiều hội nghị khoa học quốc tế, được mời giảng bài ở nhiều trường đại học y khoa, được bầu làm viện sĩ Viện Hàn lâm Y học Liên Xô, Hội quốc gia những nhà phẫu thuật Cộng hòa Dân chủ Đức, Viện Hàn lâm Phẫu thuật Paris và Hội những nhà phẫu thuật Lion (Pháp), Hội quốc gia những nhà phẫu thuật Angiêri. Năm 1977, giáo sư được Viện Hàn lâm Phẫu thuật Paris tặng Huy chương phẫu thuật quốc tế mang tên Lannelongue. Đây là phần thưởng cao quý dành cho những nhà phẫu thuật xuất sắc thế giới được trao định kỳ 5 năm một lần. Ông vinh dự và xứng đáng là một trong 12 người trên thế giới và là người duy nhất ở Việt Nam được tặng huy chương ấy.
3ef5d2ab9_t2.jpg
Bên cạnh việc nâng cao mũi nhọn hiện đại của y học, giáo sư luôn quan tâm, nhắc nhở phải giải quyết tốt các công việc cấp cứu thông thường vì điều này liên quan trực tiếp đến tính mạng của người dân. Ngay từ năm 1959, giáo sư đã chủ trương cho thông báo trở lại tuyến dưới những ưu, khuyết điểm trong xử lý các trường hợp viêm ruột thừa, lồng ruột. Từ năm 1963, thông báo về các tai nạn lao động; năm 1965, về tai nạn chiến tranh và năm 1969, về các tai nạn giao thông... để các địa phương và cơ sở phòng tránh và cấp cứu kịp thời, có hiệu quả.

Là một giám đốc bệnh viện ngoại khoa lớn, giáo sư đã sớm chú ý đến việc lựa chọn, bồi dưỡng một lực lượng cán bộ ngoại khoa kế cận, tạo điều kiện cho lớp trẻ vươn lên. Các thế hệ học trò của ông lần lượt trưởng thành. Đó là các bác sĩ Đặng Hạnh Đệ, Tôn Thất Bách, Phạm Hoàng Phiệt, Đỗ Kim Sơn, Đỗ Đức Vân...

Suốt cuộc đời mình, giáo sư Tôn Thất Tùng gắn bó với bệnh viện, với các đồng nghiệp, các học trò và các bệnh nhân của mình. Làm việc không biết mệt mỏi cho đến tận cuối đời, ông đã để lại 123 công trình khoa học có giá trị. Với những công lao và cống hiến to lớn đối với đất nước, giáo sư Tôn Thất Tùng đã được tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, hai lần Huân chương Lao động hạng Nhất, Huân chương chiến sĩ hạng Nhất, Huân chương kháng chiến hạng Ba và được truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh. Năm 2002, nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh của giáo sư, Bộ Y tế đã thành lập hội đồng xét tặng giải thưởng mang tên ông - Giải thưởng Tôn Thất Tùng.

31 năm đã qua kể từ ngày Giáo sư Tôn Thất Tùng đi vào cõi vĩnh hằng nhưng những người thầy thuốc Việt Nam, nhân dân Việt Nam và bạn bè thân thiết trên thế giới mãi mãi ghi nhớ hình ảnh giáo sư với cuộc đời trong sáng, một sự nghiệp vinh quang và những cống hiến to lớn đối với sự nghiệp bảo vệ sức khỏe cho nhân dân, cho nền y học Việt Nam và thế giới.


Nguồn: http://www.moh.gov.vn/province/pages/guongsangnganhy.aspx?ItemID=2

Saturday, May 31, 2014

GIÁO SƯ NGUYỄN NGỌC THẠCH - CHUYÊN GIA TIM MẠCH Ở MỸ


Giữa tháng 5, chuyến đi từ một rừng nhà chọc trời bằng bêtông cốt thép của TP Chicago (bang Illinois, nước Mỹ) dẫn tôi đến một ngôi nhà nhỏ nằm giữa rừng, cạnh những rặng thông cao vút và những gốc sồi già ở TP Michigan (bang Indiana).
 Và ở đó, một cuộc gặp với GS-TS Nguyễn Ngọc Thạch đã đưa tôi đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Không những là một chuyên gia về tim mạch học can thiệp, ông còn là một cây viết tinh tế trong cả tiếng Anh và tiếng Việt, một người yêu âm nhạc và say mê nghệ thuật, và hơn hết thảy là người khát khao được sáng tạo và cống hiến.
Những năm 80-90 của thế kỷ XX, thế giới bắt đầu có siêu âm. Phương pháp chẩn đoán tân kỳ này đã mở ra một hướng phát triển mới cho tim mạch học. Nắm bắt được cơ hội này, sang Mỹ học chuyên ngành tim mạch, gần 20 năm sau, GS-TS Nguyễn Ngọc Thạch đã trở thành một tên tuổi trong chuyên ngành này tại đây.
Hiện nay ông là Trưởng khoa Tim mạch, Bệnh viện St. Mary (thành phố Hobart, bang Indiana), đồng thời là thành viên Ủy ban quốc tế Trưởng môn tim mạch Hoa Kỳ, phụ trách các vấn đề ngoài nước Mỹ, đặc biệt là châu Á. Ông cũng có tên trong các cuốn sách "tự điển" nổi tiếng về các danh nhân "Ai là ai" trên thế giới (Who's Who in America, Who's Who in the World, Who's Who in Science and Engineering, Who's Who in Health Care and Medicine từ năm 2000-2006). Từ năm 1994, hàng năm, GS Thạch thường xuyên trở lại Việt Nam và Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Malaysia, Myanmar... giúp các đồng nghiệp ở đây.
* Ông đã từng khẳng định, chìa khóa của sự thành công là ý tưởng mới, vậy những ý tưởng mới có thể tìm thấy ở đâu?
- Bắt đầu từ việc quan sát thực tế quanh ta, ghi nhận những điều thấy, những biến đổi theo dự đoán và ngoài dự đoán. Từ đó tìm hiểu quy luật của những hiện tượng thông thường và nguyên cớ của những bất thường. Khi xem lại bản thảo cuốn sách của mình, điều quan trọng là xem xét có ý tưởng nào mới không, có khác biệt so với quan niệm đang tồn tại không. Từ đó, đặt câu hỏi, nếu những phương pháp điều trị hiện tại không đúng đắn hay vẫn còn nhược điểm, cách điều trị nào sẽ là tiêu chuẩn thay thế trong tương lai?
Nhà tim mạch học lớn nhất nước Mỹ - GS Eugene Braunwald, Đại học Harvard - đã nói: "Khi nào có ý tưởng mới thì phải ghi ra ngay". Nhiều khi đang lái xe trên xa lộ, dừng xe là nguy hiểm, nhưng ông ta cũng đã nhiều lần tấp xe vào lề, ghi lại những ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu. Bạn có thể tham khảo nhận định này của nhà bác học Albert Einstein: "Trí tưởng tượng lớn hơn kiến thức. Kiến thức thì mỗi người chỉ có thể biết đến một giới hạn nào đó, ỷ lại vào đó mà không thường xuyên cập nhật sẽ bị lỗi thời. Trong khi óc tưởng tượng luôn hướng đến tương lai".
Trong y khoa, những ý tưởng mới bắt nguồn từ thực tế lâm sàng khi chăm sóc bệnh nhân. Có những ý tưởng mới, bạn dẫn đường cho người khác. Còn nếu không, bạn chỉ là kẻ lẽo đẽo theo sau. Tôi thấy các bạn trẻ Việtcó nhiều ý tưởng khá thú vị khi đọc các diễn đàn thảo luận trực tuyến hay qua các tờ báo mạng.Nam
* Ông hãy cho các bạn trẻ Việt một lời khuyên, khi có ý tưởng mới, đâu sẽ là bước có thể biến được ý tưởng thành hiện thực?Nam
- Khi có ý tưởng mới, bạn có thể chia sẻ nó với một người bạn thân thiết để mổ xẻ vấn đề một cách khách quan, tỉnh táo. Dùng internet, việc thảo luận ẩn danh cũng là một điều hữu ích.
Người thứ hai mà bạn có thể chia sẻ ý tưởng của mình là thầy giáo của bạn. Có thể cả thầy lẫn bạn đều cho ý kiến sai, nhưng những chất vấn và phản biện có tính xây dựng sẽ hoàn thiện các ý tưởng mới của bạn. Vì sao họ phản đối những ý tưởng của mình. Từ đó, chúng ta có thể hiểu thêm thấu đáo về tư duy của mình.
Nếu chưa "tâm phục khẩu phục", hãy mang những thắc mắc này hỏi những chuyên gia diễn giảng trong các hội thảo khoa học. Ở Mỹ, có một điều rất đáng học hỏi, đó là việc không bao giờ từ chối lắng nghe bất cứ ý kiến nào, dù người nói có thể rất trẻ, không giỏi hay thậm chí ít học. Bởi ý tưởng mới của con người đều có thể không phụ thuộc vào hoàn cảnh nói trên. Nền y học Mỹ dung nạp rất nhiều người xuất phát từ nhiều chuyên ngành khác nhau như âm nhạc, kiến trúc, hay các môn khoa học xã hội khác. Tính đa dạng về tư tưởng đã làm cho y học Mỹ phát triển vượt bậc, cũng như nhiều ngành học khác ở Mỹ.
Khi áp dụng ý tưởng mới vào thực tiễn, hãy thử ở quy mô nhỏ trước, chúng ta có thể dừng lại khi có những kết quả không mong muốn. Tranh thủ sự giúp đỡ của thầy cô giáo và bạn bè khi cần. Nếu lần đầu thất bại, hãy tiếp tục lần thứ hai. Quan sát các dự án của một vài người khác xem họ giải quyết vấn đề như thế nào, hỏi ý kiến bạn bè, đối thủ hay các chuyên gia từ các hội thảo quốc gia hay quốc tế. Chúng ta có thể viết thư hỏi ý những chuyên gia quốc tế qua địa chỉ email của họ trong các công trình được công bố. Nếu đi sai đường, hãy thử áp dụng cách thức của các đối thủ. Trong khoa học, không có kẻ thù, tất cả đều là bạn hữu, đồng nghiệp và đối thủ. Sau vài lần cố gắng cật lực, qua nhiều đêm không ngủ, thường chúng ta sẽ đạt được những gì mình muốn.
Hơn 20 năm học tập và làm việc trên đất Mỹ, BS Thạch vẫn giữ lối trò chuyện và ngôn từ giàu hình ảnh, đậm chất dân dã Việt . Nhưng ông cũng đồng thời là tác giả những cuốn sách y khoa về tim mạch bằng tiếng Anh được coi là best seller tại Mỹ. Cuốn "Xử trí các vấn đề tim mạch học phức tạp thông qua y học thực chứng" xuất bản từ năm 2001 đã được tái bản 3 lần và đồng thời nằm trong số 100 cuốn sách tim mạch bán chạy đầu bảng trong số khoảng 1.500 đầu sách về tim mạch ở Mỹ. Cuốn "Tim mạch học can thiệp" cũng được liệt vào hàng 10 cuốn sách bán chạy nhất kể từ khi nó được xuất bản. Người ta tìm mua những cuốn sách này vì nội dung, ý tưởng và cách đột phá trong trình bày của tác giả. Nam
* Trước khi thành công, các thầy thuốc tim mạch cần gì?
- Tôi đã thành công khi tìm được sự hài hòa và lâu dài với các đồng nghiệp ở châu Á, bởi chúng tôi đều làm việc dựa trên các tiêu chuẩn đạo đức của Khổng giáo, những phẩm chất cơ bản ở mỗi người: Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín. Trước khi nghĩ đến thành công, các thầy thuốc tim mạch trên thế giới cần thành nhân đã. Còn sau khi thành công, sự cân bằng giữa áp lực công việc và thời gian chăm sóc gia đình chính là chìa khóa của hạnh phúc của mỗi người.
Ngôi nhà của BS Nguyễn Ngọc Thạch nằm giữa một khu đất rừng rộng hơn 70 mẫu, cách Bệnh viện St. Mary, nơi ông làm việc 40 phút đồng hồ chạy ôtô. Bác sĩ Thạch thích nghe nhạc cổ điển, sưu tập đồ cổ, và đi dạo trong rừng, tập thể dục, giải mã những bí mật của lịch sử (nhất là lịch sử Việt )... Không hỏi vì sao, tôi cũng đã đoán được lý do ông chọn căn nhà yên tĩnh ở giữa rừng, dù mỗi ngày đều phải thức dậy sớm và về nhà muộn hơn để lái xe tới nơi làm việc. Dung hòa cường độ làm việc căng thẳng, ông đã có một cuộc sống thanh bình gần gũi với thiên nhiên.Nam
Lúc tạm biệt, tôi xin ông một sợi dây đeo vào mình bức tranh mua làm kỷ niệm về đất nước Mỹ. Ông tự tay làm cho tôi một chiếc quai đeo sau lưng, và nói nhỏ: "Đáng lẽ là bạn phải tự làm trước, nếu không biết thì mình mới giúp". Tôi hiểu ý ông, rằng trên con đường mỗi người đi, họ trước hết đều phải rất tự cố gắng, tự định hướng cho mình, biết tự đặt câu hỏi cho mình, tìm thấy sự giúp đỡ của người khác, ắt sẽ tự tìm ra được câu trả lời.
Bốn bí quyết để có những ý tưởng hay hơn người khác
Sau một thời gian chỉ giảng dạy về kỹ thuật can thiệp tim mạch cho các đồng nghiệp Trung Quốc, tôi thay đổi cách nghĩ: Dạy họ cách giải quyết vấn đề bằng cách đặt câu hỏi đúng. Đó là phương pháp cơ bản trong giáo dục ở Mỹ. Khi một sinh viên đặt ra một câu hỏi đúng, họ sẽ có câu trả lời xác đáng. Qua đó, người sinh viên có thể giải quyết vấn đế mà không cần sự hỗ trợ của người thầy. Điều này rất quan trọng trong cuộc sống của họ. Vì khi đi làm, không có người thầy nào bên cạnh để chỉ cho mà họ phải tự giải quyết vấn đề lấy!
Thứ  hai, hãy cố gắng tìm ra sự thật một cách thực tế và trực tiếp; nói thẳng, nhìn thẳng và tiếp cận trực tiếp vào ngay trọng tâm vấn đề với tất cả sự say mê. Cuối cùng, khi rà soát lại những nghiên cứu, bài báo sắp được in, bạn phải tự hỏi: Đây có phải là giải pháp tốt nhất chưa? Có thể làm được tốt hơn không?
Thứ  ba, khoa học, nghệ thuật, trong đó có âm nhạc, khi giao thoa với nhau sẽ tạo nên những tư tưởng mới. Bán cầu não trái là khu vực tư duy của khoa học, còn bán cầu não phải là mảnh đất của nghệ thuật. Sự kết nối được hai bán cầu não sẽ cho ra đời những tư tưởng mới. Sự phân bổ chức năng của hai bán cầu cũng cho lời giải thích vì sao khi làm việc suy nghĩ mệt mỏi, ta thư giãn và luân chuyển để bán cầu não phải hoạt động thì sẽ thấy rất thoải mái và nhanh chóng phục hồi lại sức nhạy bén và tốc độ làm việc.
Thứ  tư , là để não làm việc trong khi ngủ. Nếu bạn có câu hỏi, hãy đọc nó trước khi đi ngủ. Ngay trong lúc ngủ, hai bán cầu não vẫn tiếp tục làm việc và giải quyết vấn đề khi ta thức giấc.
PGS-TS Nguyễn Ngọc Thạch

(NGUỒN: quehuongonline.vn)

Monday, May 5, 2014

ĐỂ TRỞ THÀNH BÁC SĨ GIỎI

1. THƯƠNG YÊU BỆNH NHÂN
Mọi việc người bác sĩ làm phải mang lại lợi ích tốt nhất cho bệnh nhân. Những gì tốt nhất cho bệnh nhân thì cố gắng làm, những gì không tốt thì phải tránh. Hãy điều trị bệnh nhân bằng tinh thần phục vụ, giải quyết những lo lắng của bệnh nhân, xem họ đau đớn như mình đau đớn, làm được như vậy nhất định sẽ giỏi.

2. LUÔN SUY NGHĨ NHỮNG VẤN ĐỀ LÂM SÀNG: CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ
Đưa ra câu hỏi, vấn đề và tìm cách giải quyết: hỏi các bác sĩ có kinh nghiệm, đọc sách. Từng ngày, từng ngày những vấn đề sẽ dần sáng tỏ. Hãy góp những điều nhỏ nhặt thành những điều vĩ đại, mưa dầm thấm lâu.


4. CẬP NHẬT Y VĂN
Cập nhật những nghiên cứu mới, những guideline của các hiệp hội y học để điều trị cho bệnh nhân tốt nhất. Vì phần lớn y văn và các hội nghị, workshop đều sử dung Anh Văn, nên người bác sĩ phải trau dồi Anh Ngữ hằng ngày để có thể cập nhật những tiến bộ mới nhất vào chẩn đoán và điều trị.

Tuesday, April 22, 2014

TÔN TRỌNG SỰ THẬT

Hôm nay bình bệnh án với Thầy trưởng khoa ICU có nhiều điều cần học hỏi từ Thầy. Một bạn y5 trình bệnh án nhồi máu cơ tim, nhưng không khai thác đầy đủ bệnh sử của bệnh nhân  nên đã chế  bệnh sử nhồi máu cơ tim y như sách vở. Mà chúng ta biết rằng mỗi bệnh nhân có một bệnh cảnh riêng nên Thầy đọc vào là biết chế. Thầy không la rày, chỉ khuyên nhẹ nhàng sâu sắc: bác sĩ nói những gì chắc chắn, không chắc mà nói có thể sai và làm bệnh nhân hoang mang. Thầy hỏi thời gian thực tập lâm sàng tim mạch là bao nhiêu? Thầy bảo thế ít quá không đủ. Thầy khuyên nên thực hành nhiều không nên lý thuyết suông. Thật là bổ ích và thấm thía.

Thursday, April 17, 2014

BÁC SĨ PHẢI CÓ CÁI NHÌN TỔNG QUÁT

Đứng trước một ca bệnh, người bác sĩ phải suy xét và đưa ra cái nhìn tổng quát, đầy đủ các vấn đề của bệnh nhân. Không dựa vào một xét nghiệm hay một triệu chứng mà đưa ra chẩn đoán hay loại trừ chẩn đoán, trừ khi đó là tiêu chuẩn vàng. Điều cần lưu ý là việc chuyên khoa hóa giúp bác sĩ điều trị hiệu quả hơn tuy nhiên đừng cực đoan chỉ nghĩ cho chuyên khoa của mình. Luôn nhớ rằng bệnh nhân là con người chứ không chỉ là một bệnh.

Thursday, March 27, 2014

Y HUẤN CÁCH NGÔN - HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG

1- Phàm người học thuốc, tất phải hiểu thấu lý luận đạo Nho, có thông lý luận đạo Nho thì học thuốc mới dễ. Khi có thời giờ nhàn rỗi, nên luôn luôn nghiên cứu các sách thuốc xưa nay. 
Luôn luôn phát huy biến hóa, thu nhập được vào Tâm, thấy rõ được ở mắt thì tự nhiên ứng vào việc làm mà không phạm sai lầm.
2- Được mời đi thăm bệnh : nên tùy bệnh cần kíp hay không mà sắp đặt đi thăm trước hay sau. Chớ nên vì giàu sang hoặc nghèo hèn mà nơi đến trước chỗ tới sau hoặc bốc thuốc lại phân biệt hơn kém khi lòng mình có chỗ không thành thật, thì khó mong thu được kết quả.
3- Khi xem bệnh cho phụ nữ, góa phụ, ni cô... cần phải có người nhà bên cạnh mới bước vào phòng để thăm bệnh để tránh hết sự nghi ngờ. Dù cho đến con hát, nhà thổ cũng vậy, phải đứng đắn coi họ như con nhà tử tế, không nên đùa cợt mà mang tiếng bất chính, sẽ bị hậu quả về tà dâm.
4- Phàm thầy thuốc nên nghĩ đến việc giúp đỡ người, không nên tự ý cầu vui như mang rượu lên núi, chơi bời ngắm cảnh, vắng nhà chốc lát, lỡ có bệnh cấp cứu làm cho người ta sốt ruột mong chờ, nguy hại đến tính mạng con người. Vậy cần biết nhiệm vụ mình là quan trọng như thế nào"
5- Phàm gặp phải chứng bệnh nguy cấp, muốn hết sức mình để cứu chữa, tuy đó là lòng tốt, nhưng phải nói rõ cho gia đình người bệnh biết trước rồi mới cho thuốc. Lại có khi phải cho không cả thuốc, như thế thì người ta sẽ biết cảm phục mình. Nếu không khỏi bệnh cũng không có sự oán trách và tự mình cũng không hổ thẹn.
6- Phàm chuẩn bị thuốc thì nên mua giá cao để được loại tốt. Theo sách Lôi Công để bào chế và bảo quản thuốc cho cẩn Thận. Hoặc theo đúng từng phương mà bào chế, hoặc tùy bệnh mà gia giảm. Khi lập ra phương mới, phải phỏng theo ý nghĩa của người xưa, không nên tự lập ra những phương bữa bãi để thử bệnh. Thuốc sắc và thuốc tán nên có đủ. Thuốc hoàn và thuốc đơn nên chế sẳn. Có như thế mới ứng dụng được kịp thời, khi gặp bệnh khỏi phải bó tay.
7- Khi gặp bạn đồng nghiệp, cần khiêm tốn, hòa nhã, giữ gìn thái độ kính cẩn, không nên khinh nhờn. Người lớn tuổi hơn mình thì kính trọng; người học giỏi thì coi như bậc thầy, người kiêu ngạo thì mình nhân nhượng; người kém mình thì dìu dắt họ. Giữ được lòng đức hậu như thế, sẽ đem lại nhiều hạnh phúc cho mình.
8- Khi đến xem bệnh ở những nhà nghèo túng hoặc những người mồ côi, góa bụa, hiếm hoi, càng nên chăm sóc đặc biệt. Vì những người giàu sang không lo không có người chữa, còn người nghèo hèn thì không đủ sức đón được thầy giỏi, vậy ta để tâm 1 chút họ sẽ được sống 1 đời. Còn như những người con thảo, vợ hiền, nghèo mà mắc bệnh, ngoài việc cho thuốc, lại còn tùy sức mình chu cấp cho họ nữa. Vì có thuốc mà không có ăn thì cũng vẫn đi đến chỗ chết. Cần phải cho họ được sống toàn diện mới đáng gọi là nhân thuật. Còn những kẻ vì chơi bời phóng đãng mà nghèo và mắc bệnh thì không đáng thương tiếc lắm.
9-Khi chữa cho ai khỏi bệnh rồi, chớ có mưu cầu quà cáp vì những người nhận của người khác cho thường hay sinh ra nể nang, huống chi đối với những kẻ giàu sang, tính khí bất thường mà mình cầu cạnh, thường hay bị khinh rẻ. Còn việc tâng bốc cho người ta để cầu lợi thường hay sinh chuyện. Cho nên nghề thuốc là thanh cao, ta càng giữ khí tiết cho trong sạch. Tôi xét lời dạy bảo của các bậc tiên hiền về lòng tử tế và đức hàm dục, rèn luyện cho mình rất chặt chẽ và đầy đủ. Đạo làm thuốc là 1 nhân thuật chuyên bảo vệ sinh mạng con người, phải lo cái lo của người và vui cái vui của người, chỉ lấy việc cứu sống mạng người làm nhiệm vụ của mình, không nên cầu lợi, kể công. Tuy không có sự báo ứng ngay nhưng để lại âm đức về sau. Phương ngôn có câu : "Ba đời làm thuốc có đức thì đời sau con cháu tất có người làm nên khanh tướng" đó phải chăng là do có công vun trồng từ trước chăng" Thường thấy người làm thuốc, hoặc nhân bệnh cha mẹ người ta ngặt nghèo hoặc bắt bí người ta lúc đêm tối, trời mưa, có bệnh nguy cấp : bệnh dễ chữa bảo là khó chữa, bệnh khó bảo là không trị được, giở lối quỷ quyệt đó để thỏa mãn yêu cầu, rắp tâm như thế là bất lương. Chữa cho nhà giàu thì tỏ tình sốt sắng, mong được lợi nhiều, chữa cho nhà nghèo thì ra ý lạnh nhạt, sống chết mặc bay. Than ôi! Đem nhân thuật làm chước dối lừa, đem lòng nhân đổi ra lòng mua bán, như thế thì người sống trách móc, người chết oán hờn không thể tha thứ được!". 

Saturday, March 22, 2014

BÀI GIẢNG Y HỌC CHỨNG CỨ (EBM): Ý NGHĨA CỦA TRỊ SỐ P (UNDERSTANDING P VALUE)



Khi đọc các tạp chí y học, chúng ta thường gặp giá trị P. Nhưng chưa chắc có nhiều người hiểu cặn kẽ về nó. Xin giới thiệu với mọi người bài giảng của GS. Nguyễn Văn Tuấn sẽ nói rõ ý nghĩa của trị số P trong nghiên cứu y khoa.